Nếu bạn không phải là một thầy thuốc Đông y, bạn không được tùy ý sử dụng các bài thuốc, vị thuốc trên website yhctvn.com để điều trị bệnh cho bản thân và người khác. Hãy đưa bệnh nhân tới khám và điều trị tại các cơ sở y tế, hoặc cá nhân có chuyên môn.

Bài thuốc Bối mẫu qua lâu thang

by Hoàng Duy Tân

Bài thuốc Bối mẫu qua lâu thang – Xuất xứ Y học tâm ngộ – Công dụng: Nhuận Phế thanh nhiệt, lý khí hoá đờm.

1. Thành phần bài thuốc – Tác dụng chủ trị

Bối mẫu (quân) 6- 10g Qua lâu (quân) 8-l0g
Thiên hoa phấn (thần) 8-12g Quất hồng (tá) 8-12g
Bạch linh (tá) 8-12g Cát cánh (tá sứ) 8-12g

Cách dùng: Sắc uống

Tác dụng: Thanh nhiệt hoá đờm, nhuận Phế, chỉ khái. 

Chủ trị: Trị ho do Phế bị táo, khó khạc đờm, họng khô đau, lưỡi đỏ, ít rêu mà khô.

2. Phân tích bài thuốc – Ứng dụng lâm sàng

Phân tích bài thuốc 

Bài này là ‘Nhị trần thang’ bỏ Bán hạ, Cam thảo, thêm Bối mẫu, Qua lâu, Hoa phấn, Cát cánh mà thành. Bán hạ tính táo dễ làm hao tổn tân dịch, không nên dùng cho chứng táo đờm, vì vậy đổi dùng Bối mẫu; Qua lâu thanh nhiệt hoá đờm, nhuận Phế, chỉ khái, là chủ dược; Thiên hoa phấn sinh tân, nhuận táo; Cát cánh tuyên Phế lợi yết; Quất hồng, Bạch linh, thuận khí hoá đờm.

Ứng dụng lâm sàng: Bài thuốc Bối mẫu qua lâu thang chủ trị Phê táo nhiệt có đờm, cảm, viêm Phế quản, lao phổi, ho gà.

3. Trích dẫn y văn

> Ngứa ở cổ gây ho, thêm Tiền hồ, Ngưu bàng tử để tuyên Phế lợi yết. Tiếng nói khàn, trong đờm có máu, bỏ Quất hổng, thêm Sa sâm, Hạn liên thảo, để dưỡng âm chỉ huyết. Táo nhiệt nặng, họng khô, đau, thêm Huyền sâm, Sinh địa, Mạch môn, Lô căn để thanh nhiệt nhuận táo. Phế nhiệt đờm thịnh, ho đờm vàng đặc dính, người nóng bứt rứt, lưỡi đỏ, rêu vàng, bỏ Thiên hoa phấn, Phục linh, Cát cánh, thêm Hoàng cầm, Hoàng liên, Chi tử, Đởm nam tỉnh, Cam thảo để tăng cường thanh nhiệt hoá đờm, gọi là bài ‘Bối mẫu qua lâu tán’ (Y học tâm ngộ).

> Táo nhiệt tổn thương Phế, nung tân dịch thành đờm, táo đờm không hoá, chức năng dịu mát của Phế bị rối loạn đến nỗi Phế khí nghịch lên ho sặc sụa, khó khạc đờm, cổ khô nghẹn đau, khí nghịch lên, suyễn khó thở. Trình Chung Linh nói: “Cách chung, đờm lấy táo thấp mà phân biệt, thấp đờm ở bên trên mà dễ ra, phần nhiều sinh ở tỳ; Tỳ thực thì tiêu đi;

Táo đởm sít mà khỏ ra, phần nhiều sinh ở Phế, Phế táo thì nhuận đi”. Cho nên bài này chọn dùng các vị thanh nhiệt hoá đờm, nhuận Phế lợi khí, làm cho nhiệt thanh thì đờm tiêu, Phế nhuận thì khí yên tĩnh, mọi chứng đều hết (Thượng Hải phương tễ học).

Nguồn: L/y Hoàn Duy Tân

Xem thêm:

Bạn có thể quan tâm