Banner
Nếu bạn không phải là một thầy thuốc Đông y, bạn không được tùy ý sử dụng các bài thuốc, vị thuốc trên website yhctvn.com để điều trị bệnh cho bản thân và người khác. Hãy đưa bệnh nhân tới khám và điều trị tại các cơ sở y tế, hoặc cá nhân có chuyên môn.

Bài thuốc Linh quế truật cam thang 

by Hoàng Duy Tân

Linh quế truật cam thang và Linh quế thảo táo thang chỉ khác nhau một vị thuốc, hơn kém nhau một vị thuốc nhưng tác dụng chủ trị lại khác nhau. 

1. Thành phần bài thuốc – Tác dụng chủ trị

Bạch linh (quân) 12-16gQuế chi (thần) 8-10g
Bạch truật (tá)12gChích thảo (sứ) 4-6g

Cách dùng: Bốn vị trên nước 6 tháng sắc còn 3 thăng bỏ bã chia ba lần uống lúc ấm, ngày 3 lần

Tác dụng : Kiện Tỳ thẩm thấp, ôn hoá đờm ẩm. 

Chủ trị: Trị đờm ẩm, ngực sườn đau, chóng mặt, hồi hộp, hoặc ho, khó thở, rêu lưỡi trắng, hoạt, mạch Huyền Hoạt hoặc Trầm Khẩn.

Gia giảm : 

+ Nôn ra đờm nước, thêm Khương bán hạ để ôn hoá hàn đờm, giáng nghịch chỉ ẩu. Đờm nhiều, thêm Trần bì lý khí hoá đờm. 

+ Nếu Tỳ hư, thêm Đẳng sâm để ích khí bổ Tỳ. Thấp tả do Tỳ dương hư, kết hợp với ‘Bình vị tán’ để tán thấp chỉ tả.

2. Điều văn trong Thương hàn luận

Nguyên văn – Thương hàn nhược thổ, nhược hạ hậu, tâm hạ nghịch mãn, khí thượng xung hung, khởi tắc đầu huyền, mạch trầm khẩn, phát hãn tắc động kinh, thân vì chấn chấn (lảo đảo không vững)dao giả, Phục linh quế chi bạch truật cam thảo thang chủ chi.

Dịch nghĩa

Đoạn này nói về biến chứng sau khi ngộ dùng thổ hạ gây tỳ hư thủy đình. Câu “phục linh quế chi bạch truật cam thảo thang chủ chi” nên tiếp sau câu “mạch trầm khẩn”. Thương hàn ngộ dùng thổ hạ sẽ tổn thương tỳ dương dẫn đến thủy dịch không được phân bố bình thường, đình lưu mà thành ẩm. Ấm tà trở nghịch giữa hung quản nên tìm hạ (thượng vị) nghịch mãn, khí thường xung hung. Do thủy ẩm ngăn cách làm cho khí thanh dương không lên tới đầu để nuôi dưỡng thanh khiếu nên khởi bệnh là đã chóng mặt. Mạch trầm khẩn chủ về lý có thủy ẩm mà biểu chứng đã hết, điều trị nên ôn hóa dùng Linh quế truật cam thang. Nếu không kiện tỳ lợi thủy mà lại đi phát hạn thì dương khí sẽ càng tổn thương, thủy ẩm càng thịnh tất sẽ nhiễu động kinh mạch mà xuất hiện thân thế lảo đảo không vững.

Phân tích bài thuốc

Linh quế truật cam thang lấy phục linh làm chủ được cam đạm mà bình có tác dụng lợi thủy thẩm thấp, kiện tỳ ninh tâm. Quế chi tân cam mà ôn, ôn kinh thông dương hóa khí lợi thủy. Bạch truật khổ cam mà ôn, bổ tỳ táo thấp. Cam thảo cam bình, bổ tỳ ích khí, điều hòa các vị thuốc. Bốn vị hợp lại cùng tăng lên tác dụng thông dương lợi thủy bồi thổ vận tỳ. Sự phối hợp quế linh trong phương tác dụng thông dương lợi thủy, bạch truật phục linh phối hợp tác dụng kiện tỳ lợi thủy, quế chi cam thảo phối hợp tác dụng tấn cam thông dương. Sự phối ngũ trên thật tinh tế. 

Lời bàn

Linh quế truật cam thang và Linh quế thảo táo thang chỉ khác nhau một vị thuốc, hơn kém nhau một vị thuốc nhưng tác dụng chủ trị lại khác nhau. 

3. So sánh Linh quế truật cam thang chứng và Linh quế thảo táo thang

 Linh quế truật cam thangLinh quế thảo táo thang chứng
Chủ chứng Tâm hạ nghịch mãn, khí thượng xung lên ngực

Khởi phát là chóng mặt hoa mắt

Động đập dưới rốn muốn phát chứng bôn đồn mạch trầm khẩn
Bệnh cơ Ngộ trị gây tỳ dương hư, thủy đình trung tiêuNgộ trị gây tâm dương hư, 

thủy đình hạ tiêu 

Trị tắcBồi thổ vận tỳ, thông dương lợi thủyÔn tráng tâm dương, hóa khí lợi thủy
Phương Dùng Bạch truật đế thiên về kiện tỳ lợi thủyTăng lượng phục linh dùng đại táo nặng về ninh tâm lợi thủy

4. Ứng dụng lâm sàng

Trị bệnh động mạch vành, thấp tim, bệnh cơ tim, huyết áp cao, dạ dày viêm, u môn nghẽn, túi mật viêm, khối u ở gan, xơ gan cổ trướng, táo bón, thận viêm mạn, dịch hoàn ứ nước, điên cuồng.

Trong “Kim quỹ yếu lược” phương này được dùng chữa tỳ hư thất vận, tâm hạ có đàm ẩm, ngực sườn đầy tức (chi mãn), hoa mắt khí đoản. Dùng phương này bỏ bạch truật gia phòng kỷ, hoàng kỳ tên được gọi là Phòng kỷ phục linh thang dùng chữa thủy ấm tràn (dật) ra ngoài cơ biểu gây chứng “bì thủy” với triệu chứng tứ chi phù thũng, tay chân co giật nhẹ. Phương này bỏ quế chi gia can khương gọi là Thận trước thang chữa hàn thấp tập (tập kính) vùng lưng, dương khí bị vây khốn gây đau lưng và cảm giác đau lạnh từ lưng trở xuống. “Thiên kim yếu phương” dùng phương này nhưng đổi quế chi thành quế tâm gọi là Cam thảo thang chữa tâm hạ đàm ẩm, ngực sườn đầy tức, hoa mắt… “Tế sinh phương” dùng phương này bỏ quế chi gia bán hạ, nhân sâm gọi là Hóa đàm hoàn chữa tỳ vị hư hàn đàm diện nội đình, nôn ói ăn kém. Hậu thế có người dùng phương này chữa đàm ẩm gây ra mắt mọc vẫn ế (mộng thịt), mắt mờ đau, thường xung đầu mắt. Mi mắt phù, ghèn nhiều gia ý dĩ kết quả càng rõ.

Cận đại dùng phương này điều trị viêm phế quản, hen phế quản, thấp tim, tâm phế mãn, cường giáp có triệu chứng suy tim, rối loạn tiền đình Ốc tai, viêm loét dạ dày tá tràng, viêm thận mãn mà các triệu chứng trên thuộc tỳ dương bất túc, thủy khí nội đình. 

5. Trích lược y văn

> Đây là nói về do hạ thổ phát hạn gây ra can khí hư nghịch. Thương hàn nếu sau thổ sau hạ tất vị khí hư ít nhiều, dẫn đến can khí thượng nghịch nên xuất hiện tâm hạ nghịch mãn. Trường hợp khí thường xung lên ngực tức là quyết âm chi khí thượng tới tâm. Khởi bệnh là hoa mắt tức là phong khí thắng. Tà khí tại biểu, nội bác (kết hợp) với âm do đó mạch trầm khẩn. Nếu phát hạn tức là động đến can huyết mà kinh mạch sẽ trống rỗng do đó thân thể lắc lư, Phục linh quế chi bạch truật cam thảo thang chủ chi. Bạch truật, phục linh, cam thảo bổ trung thổ chi hư, quế chi trợ can mộc chi khí (Trương Ân Am “Thương hàn luận tập chú biến thái dương mạch chứng thiên đệ nhất”).

> Nay sau khi thổ hạ lại phát hạn thái quá mà xuất hiện vong dương quyết nghịch phiền thao hoặc vẫn sốt, tâm quý, thân mình lảo đảo lắc lư muốn té ngã thuộc Chân võ thang chứng chứ phương này không thể chữa được. (Trương Lộ Ngọc) 

> Triệu Lương nói: Sách ‘Linh khu viết: Mạch của tâm bào lạc động thì bệnh, ngực sườn đầy tức là nói đờm ẩm tích tụ ở tâm bào thì bệnh tất phải như vậy. Mắt hoa, Vị có đờm ẩm làm ngăn trở đương khí trong ngực, không phân bố tinh dịch lên trên được. Phục linh nhạt thấm trục đờm ẩm xuống phía dưới, do lợi mà đỉ cho nên dùng làm quân, Quế chi thông dương đẩy thuỷ ra ngoài, da lông theo mồ hôi mà giải, cho nên dùng làm thần. Bạch truật ráo thấp giúp Phục linh táo thấp tiêu đờm để trừ đầy tức. Cam thảo bổ trung tiêu, giúp Quế chi làm mạnh thổ để chế thuỷ tà. Thở ngắn hơi là thuỷ ẩm ngưng tụ, thở ra hít vào khó khăn gây nên. Sách ‘Kim quỹ’ nêu lên hai bài, ý nghĩa rất hay. Thở ra ngắn hơi, dùng ‘Linh quế truật cam thang’ để nhẹ thanh thông dương, dương hoá khí thì tiểu tiện tự thông. Thở vào ngắn hơi, dùng ‘Thận khí hoàn’ nặng giáng để thông âm, Thận khí thông thì cửa quan tự mở (Sán bổ danh y phương luận).

Nguồn: Tổng hợp

Xem thêm:

Bạn có thể quan tâm

Zalo
Liên Hệ