Nếu bạn không phải là một thầy thuốc Đông y, bạn không được tùy ý sử dụng các bài thuốc, vị thuốc trên website yhctvn.com để điều trị bệnh cho bản thân và người khác. Hãy đưa bệnh nhân tới khám và điều trị tại các cơ sở y tế, hoặc cá nhân có chuyên môn.

Bài thuốc Tứ sinh hoàn

by Hoàng Duy Tân

Bài thuốc Tứ sinh hoàn – Xuất xứ Phụ nhân lương phương – Tác dụng Lương huyết, chỉ huyết.

1. Thành phần bài thuốc – Tác dụng chủ trị

Lá sen tươi 32g Ngải diệp tươi 12g
Trắc bá tươi 40g Địa hoàng tươi 40g

Cách dùng: Tất cả giã nát, làm thành hoàn, to bằng quả trứng gà. Mỗi lần dùng 1 viên, sắc uống.

Hiện nay dùng tươi, giã lấy nước uống hoặc làm thang sắc uống.

Tác dụng: Lương huyết, chỉ huyết. 

Chủ trị: Trị nôn ra máu, chảy máu cam, ho ra máu do nhiệt, màu máu đỏ tươi, miệng ráo cổ khô, mạch Huyền Sác hữu lực.

Kiêng kỵ: Trường hợp hư hàn xuất huyết không dùng bài này.

2. Phân tích bài thuốc – Ứng dụng lâm sàng

Phân tích bài thuốc

Trắc bá diệp thanh nhiệt, lương huyết, chỉ huyết; Sinh địa tươi lương huyết, dưỡng âm; Lá sen tươi chỉ huyết, tán ứ; Ngải diệp tươi tính ôn, có tác dụng chỉ huyết và làm giảm bớt tính mát lạnh của 3 vị thuốc trên.

Bài thuốc dùng tươi có thể tăng thêm tác dụng lương huyết chỉ huyết.

Ứng dụng lâm sàng

Bài thuốc thường được dùng để trị các chứng sốt cao kèm theo chảy máu cam, nôn ra máu, miệng, họng khô, lưỡi đỏ.

Nếu không có các vị trên, có thể thay bằng các vị Ngẫu tiết tươi, Mao căn tươi, Hạn liên thảo tươi, Tiểu kế tươi.

3. Lâm sàng hiện nay.

+ Trị xuất huyết tiêu hoá bên trên: Dùng bài này hợp với ‘Chỉ thực đạo trệ hoàn’, trị thấp nhiệt làm tổn thương Tỳ Vị gây nên chảy máu (Thực dụng trung y nội khoa học – Thượng Hải khoa học kỹ thuật xuất bản).

+ Trị lao phổi ho ra máu: Trị lao phổi dạng âm hư huyết nhiệt gây nên khạc ra máu (Trung y lịch đại danh phương tập thành).

+ Trị xuất huyết dưới da: Dùng bài này làm chính. Nếu nhiệt thịnh gây nên chảy máu, thêm Xích thược, Đơn bì, Tử thảo, Huyền Sâm. Nếu âm hư huyết nhiệt, thêm Thiến thảo, Bạch thược, Đương quy. Xuất huyết nhiều quá, thêm Ngẫu tiết, Tiểu kế, Tiên hạc thảo.

 Do khí huyết đều hư, thêm Phục linh, Bạch truật, Đảng sâm, Đương quy, Hoàng kỳ (Trung y lịch đại danh phương tập thành).

+ Trị sau khi sinh, sản dịch ra không dứt: Dùng bài này thêm Sơn tra (than), Hoè hoa (sao đen), Địa dư (sao đen), ích mẫu tháo, Bạch thược, có kết quả tốt (Trung y lịch đại danh phương tập thành).

4. Trích dẫn y văn

> Kha Vận Bá nói: “Khí của Tâm Thận không giao nhau thì ngũ tạng đều thương tổn”, âm hư thì dương không biết dựa vào đâu, sinh hoả bốc lên thượng tiêu, dương thịnh thì dương lạc tổn thương cho nôn huyết tràn ra mũi. Phàm tính của cây cỏ uống thì mát, nấu chín thì ôn, chín thì bổ, sống thi tả. Tất cả 4 vị đều là thanh, hàn, đều dùng sống, giã nát làm viên, vì thế thuỷ khí toàn vẹn, không qua chưng nấu thì càng không chịu ảnh hưởng của lửa. Sinh địa nhiều chất cao, thanh Tâm Thận mà thông nguồn của huyết mạch; Bá điệp lấy về phía Tây, thanh Phế kim mà điều hoà khí, dinh; lá Ngải cứu mùi thơm vào Tỳ Vị mà sinh huyết; lá Sen thuộc quẻ chấn vào Phế mà hoà thổ, trị phần huyết. Năm tạng yên ổn thì thuỷ hoả không xâm lấn nhau, âm thăng bằng, dương kín đáo, thì huyết trở về kinh. Bài này có thể đùng tạm để át thế nhiệt huyết chạy bậy, nếu dùng nhiều thì làm tổn thương phần dinh, vì huyết gặp lạnh thì ứ huyết không tán mà huyết mới không sinh được. Nếu chỉ biết thanh hoả, lương huyết mà không biết dùng bài ‘Quy Tỳ thang’ để điểu lý về sau thì bệnh sẽ kéo dài liên miên mà chết. Không phải lập phương không tốt mà lỗi tại người dùng bậy (Danh y phương luận).

> Vì trong bài phần nhiều là vị lương huyết, chỉ nên tạm dùng để cầm máu lại không cho máu chạy bậy, không nên dùng nhiều, vì mát lạnh quá sẽ làm cho máu ngưng đọng lại thành ứ (Thượng Hải phương tễ học).

> Gần đây người ta hay dùng Ngó sen 1280g, quả Lê tươi 640g, Sinh địa (tươi) 160g, gọt bỏ vỏ, giã lấy nước cốt uống cũng được (Trung y Thượng Hải).

Nguồn: L/y Hoàng Duy tân

Xem thêm:

Bạn có thể quan tâm