Banner
Nếu bạn không phải là một thầy thuốc Đông y, bạn không được tùy ý sử dụng các bài thuốc, vị thuốc trên website yhctvn.com để điều trị bệnh cho bản thân và người khác. Hãy đưa bệnh nhân tới khám và điều trị tại các cơ sở y tế, hoặc cá nhân có chuyên môn.

Đào hạnh thừa khí thang trong Thương Hàn Luận

by Văn Phú

Đào hạnh thừa khí thang không chỉ có thể chữa ứ huyết mà còn có thể chữa xuất huyết, không chỉ chữa bệnh chứng vùng thiếu phúc mà còn chữa bệnh chứng mọi nơi

1. Điều văn trong Thương hàn luận

Nguyên văn

Thái dương bệnh bất giải, nhiệt kết bàng quang, kỳ nhân như cuồng, huyết tự hạ, hạ giả dũ. Kỳ ngoại bất giải giả, thượng vị khả công (vẫn chưa tới lúc công), đương tiên giải kỳ ngoại, ngoại giải dĩ, đán thiếu phúc cấp kết giả, nãi khả công chi, nghi Đào hạnh thừa khí thang. (106)

Đào nhân 15 hạt bỏ vỏ đầu nhọn, đại hoàng 4 lượng, quế chi 2 lượng bỏ vỏ, cam thảo 2 lượng chích, mang tiêu 2 lượng.

Năm vị trên dùng 7 thằng nước sắc còn 2,5 thăng bỏ bã cho mang tiêu vô sắc to lửa, sôi bớt lửa, uống lúc ấm trước bữa ăn 5 hợp, ngày 3 lần, sẽ hơi tiêu chảy. 

Giải thích từ

– Bàng quang: Chỉ về vị trí tiểu phúc (bụng dưới) chứ không chỉ phủ bàng quang.

– Cấp kết: Cảm giác như có vật gì kết tụ bên trong, ấn có đề kháng nhẹ. Cấp là cảm giác cấp bách. Kết là ngưng tụ, có thể lý giải là cảm giác đè nặng (trọng áp)

Dịch nghĩa

Đoạn này luận thuật về nguyên nhân bệnh, bệnh cơ chủ chứng và điều trị của Đào hạnh thừa khí thang. Bệnh nhân bệnh cơ là thái dương bệnh bệnh tà hóa nhiệt nhập lý cùng ứ huyết tương kết ở bên trong (tiểu phúc). Do ứ huyết và nhiệt hỗ kết nên sản sinh bệnh chứng gọi là súc huyệt chứng, đoạn này thuộc súc huyết khinh chứng (nhẹ). Chủ chứng của nó là: như cuồng, hạ huyết và tiểu phúc cấp kết. Ứ nhiệt hỗ kết nên huyết không chảy theo mạch nên xuất huyết. ( huyết chủ yếu kết tại hạ tiêu do đó tiểu phúc cấp kết. Ứ huyết thừa tâm nên xuất hiện bệnh như điên cuồng. Đoạn này thảo luận tương đối kỹ về trị pháp, trên nguyên tắc có thể dùng Đào hạnh thừa khí thang điều trị. Nếu sức huyết chứng chứng tình (triệu chứng tình hình) chưa đầy đủ, ngoại chứng chưa giải thì nên giải ngoại biểu trước. Giải ngoại thì dùng phương dược nào đây? Đa số các nhà bình giải đều cho rằng có thể dùng Quế chi thang (đoạn 44, 45 nguyên văn đều dùng Quế chi thang giải ngoại), cũng có người cho rằng có thể dùng Tiểu sài hồ thang (đoạn 104 nguyên văn giải ngoại dùng Tiểu sài hồ thang). Tóm lại sức huyết khi chưa chẩn đoán xác định thì không nên dùng vào hạch thừa khí thang.

Đào hạnh thừa khí thang dùng đại hoàng làm chủ được. Đại hoàng khổ hàn tác dụng thanh nhiệt lương huyết, hoạt huyết chỉ huyết, khứ ứ sinh tân là thuốc lý tưởng nhất chữa súc huyết. Đào nhân khổ bình vị (hơi) cam chủ yếu dùng để phá huyết hóa ứ và cũng có thể khứ ứ sinh tân. Đại hoàng và đào nhân cùng dùng có thể tăng cường khả năng hoạt huyết hóa ứ . Quế chi tân cam ôn, nhập thái dương bàng quang kinh, tuyên thông dương khí, ôn thông kinh mạch. Đại hoàng, đào nhân, quế chi 3 vị phối hợp làm cho tác dụng hoạt huyết hóa ứ càng toàn diện. Mang tiêu hàm hàn, tả hạ trừ nhiệt. Tiêu hoàng cùng dùng sẽ làm cho phương này có tác dụng tả hạ nhất định. Cam thảo cam bình hoãn giải tác dụng của tiêu hoàng, điều hòa các vị thuốc. Phương này tuy có đại hoàng, mang tiêu, cam thảo nhưng mang tiêu dùng liều chỉ 4 liều trong Điều vị thừa khí thang cho nên tác dụng hai phương khác nhau. Điều vị thừa khí thang tác dụng tả hạ mạnh, chủ yếu tác dụng là tả nhiệt. Phương này tác dụng tả hạ nhẹ do đó sau phương dược có câu “Đương vi lợi”, tác dụng chủ yếu là hoạt huyết hóa ứ. Do đó chứng này không thuộc dương minh bệnh mà thuộc biến chứng của thái dương bệnh. Ứng dụng lâm sàng

Đào hạnh thừa khí thang chứng rất thường gặp trên lâm sàng. Hoàng Trúc Trai trong “Thương hàn tập chú” đã dẫn 20 điều kinh nghiệm trước kia. Gần đây trong ngoại cảm bệnh với dịch sốt xuất huyết giai đoạn thiểu niệu thường hay xuất hiện sức huyết chứng, dùng thanh hóa ứ nhiệt pháp điều trị tương đối tốt, cơ hồ đã trở thành điều trị thường quy. Súc huyết chúng cũng xuất hiện ở viêm vùng tiểu khung cấp (cấp tính bồn xoang viêm), viêm đài bế thận mãn. Trong “Nội khoa tại bệnh” xuất hiện nhiều nhất ở phụ khoa như sản hậu phát cuồng, sản hậu âm đạo huyết thũng (sưng tụ huyết), sản hậu ác lộ (sản dịch) không tận hết, sót nhau, thống kinh, sốt đau đầu khi có kinh… Nội khoa đa số xuất hiện ở trúng phong thực nhiệt tình, tắc ruột do dính, chứng điên cuồng, lao phổi xuất huyết, dị ứng xuất huyết. Ngoại khoa với sang chấn ứ huyết, gãy đốt sống lưng…

Đào hạnh thừa khí thang không chỉ có thể chữa ứ huyết mà còn có thể chữa xuất huyết, không chỉ chữa bệnh chứng vùng thiếu phúc mà còn chữa bệnh chứng mọi nơi, vừa chữa bệnh mãn tính cũng có thể chữa cả bệnh cấp tính nặng. Có thể chữa ứ nhiệt hỗ kết mà cũng có thể chữa ứ huyết đơn thuần. Dị bệnh đồng trị, bệnh cơ cơ bản của chúng đều là ứ huyết, xuất huyết phải do ứ huyết gây ra thì mới được dùng phương này.

Đào hạnh thừa khí thang không những có thể bài trừ ứ huyết vùng thiếu phủ mà cũng có thể tiêu trừ xung huyết hoặc ứ huyết nửa thân phía trên. Hỏa vượng huyết uất ở trên đầu đau, mắt đỏ, đau răng thổ nục đều có thể dựa vào lý luận thương hàn sắc huyết để điều trị, dẫn huyết hạ hành mà khỏi bệnh. 

2. Trích lược y văn

> Chứng của bài này là do tà ở Thái dương không giải, truyền vào hạ tiêu, kết cấu với huyết mà thành, chứng thấy bụng dưới trướng đầy mà tiểu tiện thông lợi, cho nên biết là súc huyết chứ không phải súc thuỷ.

Nhiệt ở phần huyết cho nên về đêm phát nóng. Tà nhiệt xông lên xâm phạm thần minh cho nên buồn phiền, vật vã, nói sảng, nặng thì cuồng. Sử dụng bài này phá huyết hạ ứ, ứ huyết hết thì nhiệt tà không có chỗ trú, bệnh tự giải.

Người sau vận dụng bài này trên lâm sàng đã có phát triển thêm, như chứng vấp ngã bị thương, ứ huyết ngưng đọng, đau nhức không thể quay trở được, đại tiểu tiện bí kết, hoả vượng mà huyết uất ở trên, đầu đau, đầu trướng, mắt đỏ, răng đau, huyết nhiệt vọng hành gây nên chảy máu mũi, hoặc mửa ra máu đen, phụ nữ huyết ứ kinh bế, hoặc sau khi sinh huyết hôi không xuống hết, bụng dưới trướng đau, suyễn đầy nguy cấp, đều có hiệu quả tốt. Tình thần tổng quát không ngoài phá huyết hạ ứ, dẫn nhiệt đi xuống (Thượng Hải phương tễ học).

> Nội dung bài thuốc là công trục nhiệt, huyết ứ tại sao sử dụng Quế chi là thuốc cay ấm? Bài này dùng Quế chi có tác dụng ôn thông kinh mạch, thông máu ứ r hành trệ. Quế chi phối hợp Đào nhân, Đại hoàng, Mang tiêu vào huyết phận trừ khử máu ứ ở hạ tiêu. Do liều dùng Quế chi thấp do đó di với Mang tiêu, Đại hoàng không có tác dụng trợ nhiệt. Sách ‘Thương hàn luận’, điểu 106 viết: ‘Bệnh Thái dương, nhiệt kết Bàng quang, người như cuồng, tiểu tiên ra máu thì bệnh khỏi’. Nếu bệnh Thái dương ngoại chứng chưa giải, không thể công họ, phải sử dụng thuốc giải biểu tà. Nếu biểu tà đã hết, bụng dưới căng đau, phải dùng thuốc công trục nhiệt, máu ứ, dùng ‘Đào nhân thừa khí thang’. Như vậy bài này Quế chi không có tác dụng giải biểu tà. Vì tà ở biểu đà hết mới dung phương này (Trung y vân dối).

> Nói về vấn đề chuyển quy sau khi dùng thuốc thì “Thương hàn luận” nguyên văn có: “huyết tự hạ (tiêu phân lẫn máu), hạ giả dữ” trên lâm sàng có trường hợp huyết hạ (tiêu phân có máu) trước khi uống thuốc thì sau khi uống thì huyết chỉ (ngưng) bệnh khỏi. Cũng có trường hợp không thấy hạ huyết nhưng sau khi uống thì xuất hiện hạ huyết bệnh khỏi và cũng có trường hợp uống phương này nhưng không thấy hạ huyết (Trương Chí Dân “Thương hàn luận phương dụng pháp”)

> Vi lại chỉ là thông đại tiện thôi chứ không phải nhất định là hạ huyết đâu (Từ Linh Đài) 

Nghiên cứu

Vương thị báo cáo dùng Đào hạnh thừa khí thang chữa 26 trường hợp bệnh tinh thần, khỏi hẳn 21 ca, chuyển biến tốt 2 ca, không kết quả 3 ca. Phương dùng: Đào nhân 9g, quế chi 12g, đại hoàng 12g, phác tiêu 30g. Mỗi ngày 01 thang uống liên tục 6 – 10 thang là 1 liệu trình. Dùng trong trạng thái hưng phấn cấp tính. 

Xem thêm:

Bạn có thể quan tâm

Zalo
Liên Hệ