Banner
Nếu bạn không phải là một thầy thuốc Đông y, bạn không được tùy ý sử dụng các bài thuốc, vị thuốc trên website yhctvn.com để điều trị bệnh cho bản thân và người khác. Hãy đưa bệnh nhân tới khám và điều trị tại các cơ sở y tế, hoặc cá nhân có chuyên môn.

Bài thuốc Tả kim hoàn

by Hoàng Duy Tân

Bài thuốc Tả kim hoàn – Xuất xứ Đan khê tâm pháp – Công dụng Thanh tả Can hoả, giáng nghịch chỉ ẩu.

1. Thành phần bài thuốc – Tác dụng chủ trị

Hoàng liên (sao với nước Gừng) (quân) 6 phần Ngô thù du (ngâm nước muối) (tá) 1 phần

Cách dung: Tán bột, làm hoàn, uống mỗi lần 2-4g.

Có thể gia giảm chuyển làm thuốc thang sắc uống.

Tác dụng: Thanh tả Can hoả. 

Chủ Trị: Can khí uất hoá hoả, ngực muộn đầy tức, nôn, miệng đắng, ợ chua, họng khô, lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch huyền sác.

Kiêng kỵ: Sườn đau do Can huyết hư không dùng

2. Phân tích bài thuốc – Ứng dụng lâm sàng

Phân tích bài thuốc:

Hoàng liên đắng hàn, có tác dụng tả tâm hỏa  tức cũng gián tiếp tả Can hoả (tả mẫu tắc tả kỳ tử) là chủ dược; Ngô thù tính cay nóng, có tác dụng khai uất cầm nôn. Bài thuốc có 2 vị, một hàn một nhiệt, tân khai khổ giáng, cùng dùng, có tác dụng thanh Can hoả, khai Can uất. Trị Can uất hoả, Vị khí nghịch gây ợ hơi, ợ chua, miệng đắng, ngực sườn đầy tức.

Ứng dụng lảm sàng: Thường dùng trị các chứng viêm dạ dày mạn, có triệu chứng nôn, buồn nôn, ợ chua, miệng đắng, ngực sườn đau tức…

Lâm sàng sử dụng bài này thường thêm Ô tặc cốt, Đoạn ngọa lăng tử, để bình Can hòa Vị, chống dư axit, giảm đau. Trị chứng viêm dạ dày cấp tính, mạn tính thuộc nhiệt chứng, kiêm Can khí bất hòa, hoặc phối hợp ‘Tứ nghịch tán’ gia giảm để tăng tác dụng sơ Can hòa Vị. Trị tiêu chảy, kiết lỵ, đau bụng nhiều, thêm Bạch thược.

3. Trích dẫn y văn

+ Hồ Thiên Tích nói: Đây chính là bài thuốc tả can hoả. Trị Can có mấy loại: Thuỷ suy mộc không sống được, dùng ‘Địa hoàng hoàn’ bổ thận để tư can; thổ suy mộc không trồng được. Trong bài dùng Sâm, Linh, Cam thảo để hoãn can bồi thổ. Bản kinh (Can) huyết hư có hoả, dùng Tiêu dao tán’ để thanh hoả, huyết hư không có thuỷ, dùng Tứ vật thang’ để dưỡng âm. Còn phép bổ hoả cũng như tận ỏ dưới, mà phép tả hoả cũng như tận ở trên. Tả kim hoàn’ chỉ dùng Hoàng liên làm quân theo phép thực thì tả tử để bẻ gẫy thế xông bốc của hoả, Ngô thù du cùng loại thì tìm nhau, dẫn nhiệt đi xuống, và lấy tính tân táo để khai can khí uất, ức chế thế thiên thắng, cho nên dùng làm tá, thế thì bản kinh (Can) khí thực mà thổ không hư mới nôn dùng (Sán bổ danh y phương luận).

_ La Thiên ích nói: “Trị can có mấy cách: Thuỷ suy mà mộc không cố gì để sinh, thì lấy những thứ như ‘Địa hoàng hoàn’ để tư bổ vào; thổ suy mà mộc không có chỗ để sinh thì dùng những thứ như Sâm, Linh, Cam thảo để bồi bổ vào; huyết hư có hoả thì dùng ‘Tiêu dao tán’ để thanh đi; huyết hư không có thuỷ thì dùng Tứ vật thang’ để nuôi dưỡng. Phép bổ hoả thì giống với thận ở dưới; phép tả hoả thl giống với tâm ở trên, cho nên bài này dùng một vị Hoàng liên làm quân dược. Nhưng cần phải bổ mộc khí thực, không bị hư, mới là thích hợp. Bài này thích hợp với thực chửng do hoả tà ở can kinh gây ra, nếu can đởm huyết hư mà sinh ra chứng đau sườn, thì bài này không thích hợp (Thượng Hải phương tễ học).

+ ‘Tả kim hoàn’ trị Can hỏa phạm Vị, đau sườn, lợm giọng, buồn nôn nuốt chua. Thiên ‘Chí chân yếu đại luận’ (Tố vấn 70) viết : ‘Các chứng khí xung ngược lên đều thuộc hỏa, các chứng nôn mửa ra nước chua đều thuộc nhiệt’. Nguyên nhân phát sinh nôn mửa, nuốt chua do Can khí uất kết, uất thành hòa, xâm phạm Vị gây ra. Can phạm Vị, chức năng thăng giáng của vị bị rối loạn, do đó trong bài dùng Hoàng liên thanh tiết Can hỏa làm quân, nếu hỏa được thanh thì không xâm phạm Vị. Trong bài thuốc, Hoàng liên có 2 tác dụng, một là sở trường của Hoàng liên là thanh Tâm, tâm là con của Can, mẹ thực phải tả con, hỏa của kinh Can Tâm giáng thì không khắc kim, kim vượng ức chế Mộc, do đó bài thuốc được đặt tên là Tả kim’. Hai là Hoàng liên có tác dụng thanh Vị nhiệt. Hỏa giáng thì khí tự giáng, do đó thích hợp chứng Can hỏa phạm Vị, nôn nghịch, nuốt chua. Trong bài dùng Hoàng liên thanh Can hỏa làm quân, kiêm thanh Tâm, Vị, một phát tên mà trúng ba mục tiêu, chỉ một vị thuốc trị cả tiêu bản.

Về mặt sinh lý, Can chủ sơ tiết, khi kinh Can có uất hỏa, nếu không dùng vị đắng lạnh giáng tiết thì không thể khai mở tán kết, do đó, phải dùng một ít thuốc cay nóng như Ngô thù du làm phản tá. Ngô thù du vị cay thơm, đắng ấm, có tác dụng khai uất tán kết ỏ kinh Can. Với liều lượng nhỏ so với Hoàng liên (tỷ lệ 6:1) chẳng những không có tác dụng hỗ trợ nhiệt, ngược lại còn tác dụng thông đạt, sơ tiết khí cơ tán kết. uất kết được khai thông thì giáng, hai vị tương phản tương thành. Ngoài ra Ngô thù du có tác dụng hạ khí cực nhanh, hỗ trợ Hoàng liên hòa vị giáng nghịch cầm nôn. Ngô thù du tính ấm, hạn chế tính lạnh của Hoàng liên. Hai vị phối hợp nhau rất đắc lực, tả hỏa mà không lưu trệ. Ngô thù du thật là một vị tá sứ giỏi. Bài thuốc tuy ít vị nhưng tác dụng tân khai khổ giáng, hàn nhiệt phối hợp rất linh diệu. Trừ uất hỏa ở Can, thanh nhiệt ở Tâm và Vị, chống nôn nghịch, các chứng trạng đều được trừ khử (Trung y vấn đối).

Nguồn: L/y Hoàng Duy Tân

Xem thêm:

Bạn có thể quan tâm

Zalo
Liên Hệ