Banner
Nếu bạn không phải là một thầy thuốc Đông y, bạn không được tùy ý sử dụng các bài thuốc, vị thuốc trên website yhctvn.com để điều trị bệnh cho bản thân và người khác. Hãy đưa bệnh nhân tới khám và điều trị tại các cơ sở y tế, hoặc cá nhân có chuyên môn.

Bài thuốc Lục vị địa hoàng hoàn

by Hoàng Duy Tân

Bài thuốc lục vị địa hoàng hoàn – Xuất xứ Tiểu nhi dược chứng trực quyết -Tác dụng Can Thận âm khuy, hư nhiệt nội kháng.

1. Thành phần bài thuốc – Tác dụng chủ trị

Thục địa (quân) 20-32g Sơn thù nhục (thần) 10-16g
Sơn dược (thần) 10-16g Trạch tả (tá) 8-12g
Phục linh (tá) 8-12g Đơn bì (tá) 8-12g

Cách dùng: Tán bột, luyện mật làm thành hoàn. Mỗi lần uống 8-12g, ngày 2-3 lần với nước sôi nguội hoặc với nước muối nhạt.

Tác dụng: Tư bổ âm của Can Thận. 

Chủ trị: Trị Can Thận bất túc, Thận âm khuy tổn, lưng đau, gốì mỏi, hoa mắt, ù tai, di tinh, tiêu khát và trẻ em phát dục không tốt. Hiện nay trong lâm sàng thấy triệu chứng Can Thận âm hư như viêm đường tiểu mãn tính, tiểu đường, huyết áp cao và thần kinh suy nhược, thường lấy bài thuốc này làm chuẩn rồi gia giảm thêm.

Kiêng kỵ: Rối loạn tiêu hoá, tiêu chảy, không nên dùng.

2. Phân tích bài thuốc – Ứng dụng lâm sàng

Phân tích bài thuốc

Thục địa tư âm bổ Thận, thêm tinh ích tuỷ mà sinh huyết, là chủ được; Sơn thù ôn bổ Can Thận, thu sáp tinh khí; Sơn dược kiện Tỳ cố tinh, ‘Tam bổ’ trong bồi thuốc, nhưng lấy

Thục địa bổ Thận làm chính, Sơn thù bổ Can, Sơn dược bổ Thận làm phụ, vì vậy liều lượng Thục địa gấp đôi vi kia; Đơn bì lương huyết thanh nhiệt mà tả hoả ở Can Thận, giảm bớt tính ôn của Sơn dược; Trạch tả thanh tả Thận hoả, giảm bớt tính nê trệ của Thục địa; Phục linh lợi thuỷ thẩm thấp, giúp Sơn dược kiện Tỳ. Đơn bì, Trạch tả, Bạch linh là ‘Tam tả’ của bài thuốc này. Vì bài thuốc này bổ là chính nên liều lượng các vị thuốc tả dùng ít thôi.

Ứng dụng lâm sàng 

Bài này được dùng nhiều trên lâm sàng để trị bệnh mạn tính như suy nhược thần kinh, suy nhược cơ thể, lao phổi, lao thận, tiểu đường, viêm thận mạn tính, cường tuyến giáp, huyết áp cao, xơ mỡ mạch, phòng tai biến mạch máu não ở người lớn tuổi hoặc ở những bệnh xuất huyết tử cung cơ năng, có hội chứng Can Thận âm hư đều có thể gia giảm dùng, có kết quả tốt.

Những bệnh về mắt như viêm thị thần kinh, viêm võng mạc trung tâm, teo thị thần kinh, thêm Đương qui, Sài hồ, Cúc hoa, Ngũ vị tử để chữa có kết quả nhất định.

3. Nghiên cứu lâm sàng Lục vị địa hoàng hoàn

+ Trị tiểu đường: Dùng bài này trị 20 ca, trong đó, có 18 ca biểu hiện lâm sàng rõ, còn 2 ca lâm sàng chưa rõ (thuộc loại ẩn). Kết quả: Khỏi 12, dỡ 8. Thời gian uống thuốc, ngắn nhất là 90 ngày, nhiều nhất là 180 ngày (Vân Nam y dược 3, 1983).

+ Trị tiểu đường: Dùng bài này trị 53 ca. Khỏi 46, dỡ 5, không khỏi 2 (Hồ Bắc trung y tạp chí 3, 1987).

+ Trị thận viêm, nước tiểu đục: Dùng bài này gia giảm trị 30 ca. Khỏi 20, đỡ 8, không khỏi 2 (Quán Châu ỵ dược 3, 1986).

+ Trị thận viêm, nước tiểu đục: Dùng bài này gia giảm trị 10 ca, khỏi hoàn toàn (Hồ Bắc y dược tạp chí 4, 1987).

+ Trị lao thận (Thận kết hạch), tiểu ra máu: Dùng bài này gia giảm trị 2 ca. Kết quả: Hết tiểu ra máu. Theo dõi hơn 1 năm, không thấy tái phát (Giang Tô trung y 9, 1963).

+ Trị hội chứng khô táo (Can táo tổng hợp chứng): Dùng bài này gia giảm trị 11 ca. Khỏi 4, đỡ 7. Thời gian trị ngắn nhất là 5 ngày, nhiều nhất 21 ngày (Trung y tạp chí 8, 7.9,90).

+ Trị Họng sưng đau (hầu tý): Dùng bài này gia giảm trị 10 ca. Khỏi 7, đõ 2, không khói 1. Thời gian uống thuốc: ngắn nhất 5 ngày, nhiều nhất 32 ngày (Quảng Tây trung y dược 1, 1986).

+ Hội chứng mãn kinh ở phụ nữ (Phụ nữ canh niên kỳ tổng hợp chứng): Dùng bài này gia giảm trị 23 ca. Kết quả: Tỉ lệ khỏi đạt 61% (Trung Tây y kết hợp tạp chí 6, 1986).

+ Trị viêm võng mạc trung tâm: Dùng bài này gia giảm trị 52 ca, khỏi 11, đỡ 12, có chuyển biến 16, không khỏi 13. Thời gian uống thuốc, ngắn nhất 12 ngày, nhiều nhất 190 ngày (Tân y dược học tạp chí 5, 1976).

+ Trị viêm võng mạc trung tâm, viêm thần kinh thị giác: Dùng bài này gia giảm trị 28 ca, khỏi 13, đỡ 12, không khỏi 3 (Khoa y dược bệnh viện Hồ Bắc 3, 1975).

+ Trị ung thư thực quản (Thực quản thượng bì trọng độ tăng sinh): Dùng bài này trị 30 ca. Kết quả: Uống thuốc sau 1 năm, có 26 ca thực quản trở lại bình thường, không kết quả 4 (Tân y dược học tạp chí 10,1977).

+ Trị bệnh ở cột sống (Cảnh chuỳ bệnh): Dùng bài này gia giảm trị 18 ca, khỏi 14, đỡ 3, không khỏi 1 (Hà Bắc trung y 1, 1990).

+ Suy sinh dục nam (Nam tính bất dục chứng): Đã trị 21 ca, khỏi 15, đỡ 3, không khỏi 3. Nhóm khỏi bệnh, theo dõi thấy có 10 người đã có con (Nam Kinh trung y học viện học báo 2, 1988).

+ Trị ung thư thực quản, sau khi phẫu thuật bị tái phát (Thực quản nham thuật hậu phục phát): Tri 2 ca. Kết quả: Sau khi uống 14-18 tháng, toàn bộ đều khỏi. Có người đã sống đến 2 năm 9 tháng, có người sống hơn 5 năm 7 tháng (Phúc Kiến trung y dược. 3, 1984).

+ Trị tai tự nhiên bị ù: Trị 2 ca. Sau khi uống 20 thang, khỏi bệnh (Tân trung y 2, 1977).

4. Trích dẫn y văn

> Vì Thận chủ 5 chất dịch, nếu âm thuỷ không giữ vững thì chân âm không đầy đủ, nước tiểu không lưu thông thì tà thuỷ đi ngược lên, cho nên lấy Địa hoàng làm quân để bảo vệ sự phong tàng của Thận, lấy Trạch tả làm tá để sơ thông cái ngưng trệ của đường nước. Nhưng Thận hư nếu không bổ Phế, không khơi trên nguồn cũng không lấy gì để củng cố cái dụng phong tàng; Sơn dược mát, bổ, để bồi bổ nguồn của thuỷ; Phục linh nhạt, thấm, để khơi thông nguồn của nước tiểu; lại thêm Thù du chua, ôn, để thu hồi Thiếu dương hoả (đởm), tư dịch cho Quyết âm (Can); Đơn bì cay hàn để thanh hoả của thiếu âm (Tâm) và kiềm chế dương khí của Thiếu dương. Tư hoả nguyên, phụng sinh khí, thì tinh (của nam), huyết (của nữ) được yên chỗ, mạnh thuỷ để chế hoả, chỉ là một mối mà thôi (Danh y phương luận).

> “Bài này không chỉ trị Can Thận bất túc mà thực ra là bài thuốc trị tạng Tâm và phần âm. Có Thục địa nhờn, béo để bổ Thận thuỷ, lại có Trạch tả hỗ trợ để tuyên tiết chất trọc vào trong Thận. Có Sơn thù để ôn sáp Can kinh thì có Đơn bì hỗ trợ để thanh Can tả hoả. Có Sơn dược thu nhiếp Tỳ kinh thì có Phục linh giúp thấm thấp để điều hoà. Bài thuốc chỉ có 6 vị mà có mở có đóng, cũng trị cả tam âm, đúng với mục đích chính của bài thuốc vậy” (Y Phương luận).

> “Lục vị địa hoàng hoàn’ vị nặng, thuần âm, là bài thuốc nhuận hạ… Tiền Ất dùng trị các bệnh: trẻ nhỏ chậm biết đi, chậm mọc răng, ống chân mềm, thóp đầu không kín, âm hư, sốt, đều do Thận hư. Mà trẻ nhỏ dương khí còn ít, thuần khí, không có phép bổ dương, chl dùng bài này là có công hiệu ngay” (Thành phương thiết dụng).

Nguồn: L/y Hoàng Duy tân

Xem thêm:

Bạn có thể quan tâm

Zalo
Liên Hệ