Nếu bạn không phải là một thầy thuốc Đông y, bạn không được tùy ý sử dụng các bài thuốc, vị thuốc trên website yhctvn.com để điều trị bệnh cho bản thân và người khác. Hãy đưa bệnh nhân tới khám và điều trị tại các cơ sở y tế, hoặc cá nhân có chuyên môn.

Bài thuốc Sinh hóa thang [phân tích, nghiên cứu, và ứng dụng]

by Hoàng Duy Tân

Bài thuốc Sinh hóa thang – Xuất xứ Cảnh nhạc toàn thư – Tác dụng Dưỡng huyết khứ ứ, ôn kinh chỉ thống

1. Thành phần bài thuốc – Tác dụng chủ trị

Đương quy (quân) 32g Đào nhân (thần)12g
Cam thảo (tá) 2g Xuyến khung (thần)12g
Bào khương (tá) 2g

Cách dùng: Sắc uống hoặc cho thêm ít rượu, sắc uống.

Tác dụng: Hoạt huyết, hóa ứ, ôn kinh chỉ thống. 

Chủ trị: Trị chứng huyết hư, ứ trệ sau khi đẻ, bụng dưới đau do hàn.

2. Phân tích bài thuốc – Ứng dụng lâm sàng

Phân tích bài thuốc

Đương quy liều cao có tác dụng bổ huyết, hoạt huyết, hóa ứ sinh tân, là chủ dược; Xuyên khung, Đào nhân, hoạt huyết hóa ứ; Bào khương ôn kinh chỉ thông; Chích thảo điều hòa các vị thuốc, dùng rượu tăng tác dụng hoạt huyết tiêu ứ.

Ứng dụng lâm sàng: Bài thuốc Sinh hóa thang thường được dùng cho sản phụ sau khi đẻ, máu xấu không ra hết, đau bụng, vì bài thuốc tính ôn cho nên dùng thích hợp với chứng hư hàn.

Gia giảm:

+ Trường hợp có cục ứ huyết, bụng đau nhiều, thêm Bồ hoàng, Ngũ linh chi, Diên hồ sách để hóa ứ chỉ thống;

+ Hư hàn, thêm Nhục quế để ôn kinh tán hàn;

+ Nếu huyết ứ sinh nhiệt, thêm Đan sâm, Xích thược để thanh nhiệt lương huyết, hoạt huyết hóa ứ;

Bài này dùng cho sản phụ sau khi sinh đẻ có tác dụng làm giảm đau bụng do co bóp tử cung, đồng thời có tác dụng kích thích tăng sữa cho người mẹ.

3. Nghiên cứu lâm sàng Sinh hóa thang

+ Trị sinh xong tử cung không co lại hết: Dùng bài này thêm Hồng hoa, trị 59 ca so với 50 ca đối chiếu. Kết quả: Sau khi uống thuốc, tử cung co lại chỉ còn xệ xuống 2cm, 51 ca so với 18 ca ở tổ đối chiếu (Thượng Hải trung y dược tạp chí 3, 1984).

+ Trị sinh xong tử cung không co lại: Trị 100 ca, sinh xong 1-3 ngày, uống mỗi ngày 1 thang. Kết quả: Sau khi uống thuốc tử cung co lại, hết ra sản dịch, sữa tiết ra như bình thường (Tứ Xuyên trung y 12, 1989).

+ Trị sinh xong tử cung co rứt đau: Đã trị 41 ca, khỏi 35, 3 ca đỡ ít, 3 ca không kết quả rõ lắm (Thượng Hải trung y dược tạp chí 3, 1984).

+ Trị sau khi phá thai âm đạo chảy máu: Dùng bài này thêm Đan sâm, Sung úy tử, trị 360 ca. Dỡ ít 210 ca (uống 3 thang không thấy cầm máu), 150 ca có kết quả , thời gian cầm máu không qúa 6 ngày) (Hồ Bắc trung y tạp chí 1, 1986),

+ Trị sau khi phá thai âm đạo chảy máu: Dùng bài này hợp với bài ‘Thất tiếu tán’, trị 80 ca. Khỏi 72 (hết chảy máu và các triệu chứng đều hết 2-6 ngày), 6 ca có chuyển biến tốt (hết chảy máu sau 6-8 ngày), 2 ca không khỏi (Vân Nam trung y tạp chí 3, 1988).

+ Trị sau khi phá thai và sau khi mổ âm đạo bị ra máu: Đã trị 56 ca, 4 tễ là 1 liệu trình, có một sô” uống 1 liệu trình, một sô” 2 liệu trình. Kết quả: Khỏi 50, đỡ 3, không khỏi 3 (Liêu Ninh trung y tạp chí 8, 1990).

+ Trị thai chết lưu: Có triệu chứng lâm sàng đau lưng, bụng trằn đau, ra máu không cầm: Kết quả: Sau khi uống 2-4 thang, xổ thai chết ra, hết ra máu, bụng hết đau (Thượng Hải trung y dược tạp chí 3, 1984).

+ Trị thai chết lưu (có triệu chứng lâm sàng: đau lưng, bụng trằn đau, ra máu không cầm): Dùng bài này thêm Đan sâm, Diên hồ phấn, trị trường hợp thai chết 10 ngày không ra, đã quyết định phải mổ. Dùng bài này 2-3 ngày có thể trục thai ra (Vân Nam y dược 1, 1985).

+ Trị thai ngoài tử cung: Dùng bài này bỏ Bào khương, hợp với bài ‘Quế chi phục linh hoàn’, trị 33 ca. Kết quả: Có 12 ca không thích hợp phải chuyển sang giải phẫu còn lại 21 ca đều khỏi (Tân trung y 11, 1984).

+ Trị tử cung sưng to (phì đại): Dùng bài này thêm Tam lăng, Nga truật, trị 46 ca, khỏi 25, đố 18, không khỏi 3 (Sơn Tây y học tạp chí 6, 1980).

4. Trích dẫn y văn

Trương Bỉnh Thành nói: Phàm sau khi sinh, khí huyết lại hư, vốn nên bồi bổ. Nhưng có bại huyết ứ trệ thì huyết mới không sinh được, cho nên thấy các chứng đau bụng, lại không thể không trừ ứ làm đầu. Trong bài Đương quy dưỡng huyết, Cam thảo bổ trung tiêu, Xuyên khung điều hoà khí trong huyết, Đào nhân hành ứ trong huyết, Bào khương mầu đen vào dinh, giúp Quy, Thảo để sinh huyết mới, giúp Khung, Đào để hoá dương, cái hay sinh hoá mới thần kỳ làm sao. Dùng Đồng tiện là để ích âm trừ nhiệt dẫn bại huyết theo đường cũ xuống vậy (Thành phương tiện độc).

Nguồn: L/y Hoàng Duy tân

Xem thêm:

Bạn có thể quan tâm