Nếu bạn không phải là một thầy thuốc Đông y, bạn không được tùy ý sử dụng các bài thuốc, vị thuốc trên website yhctvn.com để điều trị bệnh cho bản thân và người khác. Hãy đưa bệnh nhân tới khám và điều trị tại các cơ sở y tế, hoặc cá nhân có chuyên môn.

Vị thuốc Mã đâu linh còn gọi: Đâu linh (Bản thảo thuật điếu nguyên). Thủy mã hương quả (Giang Tô thực dược chí). Hồ lô quán (Đông Bắc được thực chí). Sú linh đang (Hà Bắc dược tài). Sà tham quả (Tứ Xuyên trung dược chi).

– Tên cổ trong sách cô: Vương hoàng qua, vương thất qua, ngọc bảo qua, đầu linh miêu, lưỡng kim đằng (Hòa hán dược khảo). Vân nam căn (Cương mục). Đô lâm đằng (Trửu hậu phương).

– Tên khoa học: Aristolochia debilis sieb, et ZuCC. Thuộc họ Mã đầu linh (Aristolochiaceae). 

1. Bộ phận dùng thu hái và chế biến

– Bộ phận dùng: Mã đâu linh là quả cây Mã đâu linh (Aristolochia contorta, họ Mộc hương nam (Aristolochiaceae).

– Hình thái 

Mã đâu linh là một loại dây leo cạnh đường, mùa xuân từ rễ chính nảy mầm, bám quanh cây lớn mà leo, lá tựa lá hoài sơn (củ mài) mà dầy. Mặt dưới lá sắc trắng, có lông nhung. Lá mọc xen kẽ, cuống lá tương đối nhỏ, dài ước 1 – 1,5cm, phiến lá hình trứng hẹp dạng 3 góc, dài 3 – 8cm, rộng 1,8 – 4,5cm từ vùng giữa trở lên hẹp dần, lá dọc đều có một loại mùi hôi dữ, mùa hè ở nách lá nở hoa dạng ống không đều nhau màu vàng tía, rễ gọi là “thanh mộc hương”. Loại cây này đến, cuối thu thì chết khô. Quả hình tròn trứng màu hạt dẻ, màu nâu dài khoảng 3,2cm rộng 2 – 2,5cm bọc bằng một vỏ mỏng, trong có nhiều hạt bọt, sắc trắng tựa như quả du. Cành và lá gọi “Thiên tiên đằng” đều dùng làm thuốc..

– Thu hái:

Tháng 9 – 10, lúc quả từ xanh biến thành vàng, hái cà cuống, phơi khô, Trung Quốc còn dùng 1 loại gọi là “bắc mã đâu linh” có tên khoa học: Aristolochia contorta Bge. Còn có tên là mã đâu linh lá tròn.

Ngoài ra ở Cam Túc còn dùng một loại mã đâu linh lá to, tên khoa học: Aristolochia kaempferi willd.

– Bào chế

Mã đâu linh. Đập vỡ số sát bỏ gân, sàng bỏ bùn đất. Mật đâu linh là mã đâu linh sạch thêm mật ong đã luyện chín và chút nước sôi vào để trong nồi, sao đến sờ vào không dính tay làm mức, lấy ra để nguội (mã đâu linh 100 – mật ong luyện chín 35 – 40 cân)

2. Tác dụng dược lý

1) Tác dụng đối hệ thống hô hấp:

Đã chứng minh rằng miệng uống thuốc sắc mã đâu linh (lg/kg thân thể) có tác dụng trừ đờm yếu, hiệu quả không bằng tử uyển và thiên nam tinh. Thí nghiệm rót thuốc ngâm 1% vào chi khí quản phối của chuột cống đã tách rời cơ thể có thể khiến chi khí quản phối thư rãn, đồng thời có thể đối kháng với pilocarpine (mao quả vân hương kiềm), acetylcholine, cùng Với histamine dẫn đến chi khí quản co thắt, nhưng không thể đối kháng được barium chloride dẫn đến co thắt.

2) Tác dụng kháng khuẩn:

Thí nghiệm thuốc ngâm mã đâu linh ngoài cơ thể tỉ lệ (1/4) đối với khuẩn ngoài da thường thấy có tác dụng ức chế nhất định.

Quả hạt mã đâu linh bắc (Aristolochia contorta Bge) tươi, cùng lá trong ống nghiệm đối với khuấn staphylococcus aureus (khuẩn cầu bồ đào sắc vàng) có tác dụng ức chế, tác dụng quả hạt so Với lá mạnh hơn, sau khi trừ chất thuộc da vẫn có công hiệu, sau khi thêm nóng thì tác dụng kháng khuẩn giảm thấp hoặc tiêu tan, đối Với khuấn trụ mủ xanh (pseudomonas aeruginosa) thì không có tác dụng.

Vị thuốc Mã đâu linh

Vị thuốc Mã đâu linh

3. Tác dụng của Mã đâu linh theo Đông y

– Tinh bị: Đắng, lạnh. 

– Vào kinh: Thủ thái âm phế. 

– Công dụng chủ trị:

Thanh phế giáng khí, hóa đờm gừng ho. Trị phế nóng suyễn ho, nạc ra máu, mất tiếng, trĩ rò sưng đau.

+ Dược tính luận: Chủ khí phế lên gấp, ngồi thở không được, ho ngược liên tục.

+ Nhật Hoa tử bản thảo: Trị trĩ rò lở loét lấy thuốc khô trong bình đốt hun chỗ có bệnh.

+ Khai bảo bản thảo: Chủ trị phế nóng ho, đờm kết suyễn xúc, trĩ ra máu, rò rỉ lở loét.

+ Chân châu nang: Lợi tiểu, chủ phế nhiệt, an phế khí, bổ phế.

+ Bản thảo cầu nguyên: Trị trong phế thấp nhiệt, tiếng nói không trong, đờm suyễn họ hắng. Trẻ con ma chẩn hãm vào trong, suyễn đầu, tiếng câm, nên thêm dùng.

+ Hiện đại thực dụng trung dược: Trị khạc ra máu. 

* Cách dùng: 4g-8g/ngày.

* Kiêng kỵ: Người hư hàn ho suyễn cùng tỳ yếu, đại tiện tiết tả cẩn thận khi dùng.

4. Phương thuốc chọn lọc

1) Trị phế khí suyễn ho:

Mã đầu linh 2 lạng (chỉ dùng hạt mặt trong bỏ vỏ). Bơ nửa lạng, cho vào trong bát đảo đều (lửa nhỏ sao khô). Cam thảo (nướng) 1 lạng.

Hai vị nghiền nhỏ, mỗi lần uống 1 đồng cân, nước 1 bát sắc còn 6/10, ngậm ấm. Hoặc lấy bột thuốc ngậm họng nuốt nước bọt cũng được. (Giản Nếu tế chúng phương)

2) Trị trẻ con phế hư, thở to suyễn xúc:

A giao 1 lạng 5 (sao lúa); Thử niêm tử (sao thơm), cam thảo (nướng) đều 2,5 đồng cân. Mã đầulinh 5 động cân (sao). Hạnh nhân 7 hạt (bỏ vỏ đầu nhọn). Gạo nếp 1 lạng (sao).

Tất cả nghiền nhỏ. Mỗi lần uống 1 – 2 động cân, nước 1 chén to sắc còn 6/10 uống ấm sau khi ăn. (“Tiểu nhi dược chứng trực quyết” A dao tán)

3) Trị bụng to như trống do bụng nước:

Lấy nước nấu mã đâu linh uống. (Thiên kim phương) 

4) Trị tâm đau:

Mã đâu linh to 1 quả để trên đèn sao tồn tính, nghiền nhỏ, rượu ấm điều uống. (Trích nguyên phương)

5) Giải độc trùng, rắn, trong khi ăn uống mắc phái, trong họng như có vật, nuốt không xuống, nôn không ra, dưới vùng tâm nóng buồn bực dùng:

Mã đâu linh 1 lạng sắc nước uống bèn nôn ra. (Thôi hàng công toát yếu phương)

6) Trị trĩ rò sưng đau:

Mã đâu linh đặt trong bình có miệng lỗ thủng, đốt cho khói bay ra lỗ thủng hun vào nơi trĩ sưng đau. (Nhật hoa bản thảo phương) 

5. Lâm sàng báo cáo

Mã đâu linh đầy đủ có tác dụng ôn hòa mà giữ được lâu về giáng áp, thích hợp dùng chữa bệnh cao huyết áp thời kỳ tương đối sớm, thuốc chế ra và cách dùng các địa phương không giống nhau nên kết quả cũng hơi có sai khác.

1) Thuốc sắc ngâm rượu:

Lấy mã đầu hình 1 cân đập vỡ ra thêm vào 20% alcohol với dung clịch 3000ml đặt kín trong bình sứ, | luôn lắc khuấy, ngâm 2 tuần, sau đó nấu 2 giờ rồi đem lọc ép lấy 1000ml, đợi nguội thêm vào 1/10 lượng cồn 95% đảo quấy cho đều dùng: Mỗi ml chứa thuốc sống 0,5g.  Tùy bệnh tình nặng hay nhẹ môi ngày dùng 12 – 20ml chia 3 lần sau khi ăn thì uống.

Quan sát 121 giường bệnh cao huyết áp độ I, II, III, nói chung sau uống thuốc từ 5 – 15 ngày thì huyết áp hạ xuống, bình quân mức độ giáng xuống là 28/15mmHg. Trong đó huyết áp tâm trương rõ ràng xuống thấp(>21mmHg) là 29 giường (chiếm (24%), giáng thấp độ nhẹ (11 – 20mmHg) là 60 giường (chiếm 49,6%). Tổng cộng giáng áp có hiệu suất là 73,6%. Bệnh nhân ở độ I và II chữa khỏi So với bệnh nhân kỳ cuối là tốt, sau khi uống thuốc đường cong giáng áp biểu hiện giáng thấp từ từ, cũng có. bộ phận giường bệnh xuống thấp biểu hiện dạng sóng động, đồng thời có 3/4 số bệnh nhân những chứng trạng lâm sàng như đầu mờ tối, đầu đau, tâm quí, mất ngủ được cải thiện rõ ràng hoặc tiêu tan. Sau khi dùng thuốc, người bệnh thời kỳ đầu (rất sớm) giữ được huyết áp bình thường (số lớn bệnh nhân) còn người bệnh ở kỳ II trở về sau đại đa số sau 20 ngày đến vài tháng thì có xu thế trở lại tăng áp, nhưng dẫn đến độ cao như trước khi chưa dùng thuốc thì không có vẫn thấp hơn khi chưa dùng thuốc. Nếu lại tiếp tục uống thuốc vẫn có thể nhanh chóng thấy công hiệu. Trong thời gian uống thuốc trừ số ít giường bệnh có cảm giác buồn nôn, đau bụng đi tả, lòng muốn ăn giảm sút ra, chưa thấy tác dụng phụ khác. Kinh nghiệm cho thấy: thuốc tẩm rượu sắc uống mỗi ngày lượng dùng 15ml là phù hợp, sau khi huyết áp rõ ràng hạ xuống vẫn cần tiếp tục uống thuốc 2 tuần nữa là ít nhất, dùng thuốc trường kỳ cũng không có tác dụng phụ nghiêm trọng nào. 

2) Cao mã đầu linh:

Cứ 500ml hàm chứa thuốc số 1g 1 cân, bắt đầu mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 2ml, về sau có thể dẫn tăng đến 5ml. Quan sát 32 giường, qua trên dưới 1 tháng chữa trị, bình quân giáng áp 26/15mmHg. Trong đó huyết áp tâm trương rõ rệt giảm thấp và độ nhẹ giảm thấp (tiêu chuẩn giống trước) phân biệt chiếm 34,4% và 25,0%, hợp tính giáng áp có hiệu suất là 59,4%, rói chung từ 7 – 14 ngày uống thuốc thì xuất hiện hiệu quả. Nhưng đối với việc cải thiện chứng trạng lâm sàng thì không đủ hoàn toàn màn ý, đa số vẫn nên kết hợp phương pháp khác tùy chứng mà chữa. Sau khi uống thuốc trừ cá biệt có giường bệnh buồn nôn ra phần nhiều không có phản ứng xấu.

3) Thuốc sắc:

Mỗi ngày dùng mã đâu linh 1g thêm nước 500ml sắc còn nửa chia 3 lần sau bữa ăn uống, 37 giường sau khi bệnh nhân uống thuốc được 15 – 25 ngày thì huyết áp tâm trương (thư chương áp) rõ rệt xuống thấp là 10 giường, độ nhẹ xuống thấp 9 giường, không hiệu 16 giường, bình quân giáng áp 28 / 13mmHg. Sau khi dùng thuốc một bộ phận người bệnh huyết áp trở lại tăng 1 độ, trong thời kỳ ngắn đều tự nhiên bình phục. Thời gian quan sát dài nhất 278 ngày huyết áp chưa thấy tăng trở lại, đại bộ phận người bệnh chứng trạng cũng có cải thiện, trong đó váng đầu, đầu tối tăm mờ mịt được cải thiện rất rõ rệt. Tác dụng phụ chủ yếu là dạ dày nhận thức ăn không tốt và mềm yếu, nhưng phần nhiều không ảnh hưởng đến việc chữa trị.

6. Các nhà luận bàn

1) Cương mục:

Mã đâu linh, lạnh có thể làm mát phổi nóng, đắng cay có thể giáng khí của phế. Tiền ất bài “Bổ phế a giao tán” dùng không phải là bố phế mà lấy ý là thanh nhiệt giáng khí xuống vậy, tà đi thì phế lên vậy. Trong bài dùng a giao và gạo nếp là thuốc chính bố phế vậy.

Trong thuốc sắc dùng nhiều, cũng làm thuốc cho nôn, điều mã đâu linh không bổ phế có thể suy ra vậy.

2) Bản thảo kinh sơ: 

Mã đâu linh vào phế trừ nhiệt mà khiến khí đi xuống, ho hắng ấy là bênh khí đi lên vậy, khí giáng xuống nhiệt trừ thì họ tự lên vậy. Đờm kết lại, suyễn thở gấp súc cũng là bệnh phế nhiệt vậy nên đều dùng làm chủ vậy. Huyết trĩ, rò rỉ, lở loét là do máu nóng. Huống chi bệnh tri thuộc đại tràng, đại tràng cùng phế có quan hệ biểu lý, làm mát tạng nhiệt thì phủ nhiệt cũng thanh vậy, cho nên cũng làm chủ vậy. Ngõa Quyền dùng để trị khí phế xốc lên cấp, ngồi thở không được, ho ngược liên miên không ngừng. Khiết Cổ dùng để thanh khí của phế, bổ phế, trừ trong phổi có thấp nhiệt ấy đều là cái lực trừ nhiệt giáng khí tan kết vậy.

3) Bản thảo kinh độc: 

Mã đâu linh tuy nói rằng không độc, nhưng mà tính nó thiên về hàn, uống nhiều tất dẫn đến nôn, lợi không ngừng vậy. Nội kinh nói: phế thích ấm mà ghét lạnh, như “khai bảo” nói: phế nóng họ là chứng rất ít vả lại chủ trị ho hắng đờm kết suyễn súc, cùng với chứng ngoài như trĩ liệt lở cùng một cách chữa thì là vị thuốc mát tả công kích chất rắn không còn nghi ngờ gì nữa.

Nguồn: L/y Hy Lãn

Xem thêm:

Bạn có thể quan tâm