Vị thuốc Xuyên khung: Còn gọi: Tây khung (Cương mục). Thai khung (Bản thảo mông thuyên). Vu khung (Đan khê tâm pháp). Quán khung (Chân châu nang). Kinh khung (Bản thảo đồ kinh). Mã nhai khung cùng (Đào Hoằng Cảnh). Hồ cung (Biệt lục). Hương quả (Ngô phổ bản thảo), Sơn cúc cùng (Tả truyền).
– Tên khoa học: Ligusticum wallichii franch. Thuộc họ Hoa tán. (Umbelliferae).
Mục Lục
1. Bộ phận dùng, thu hái, bào chế
– Bộ phận dùng: Xuyên khung là thân rễ phơi khô của cây Xuyên khung
– Hình thái
Là một cây thuộc thảo, sống lâu năm, thân mọc thẳng, trong ruột rỗng, mặt ngoài có đường gân dọc nổi rõ, lá mọc so le kép 3 lần. Cuống lá dài 9 – 17cm, phía dưới ôm lấy thân, 3 – 5 đôi lá chét, cuống lá chét dài, phiến lá chét rách sâu, khi và có mùi thơm. Hoa họp thành tán kép; cuống tán phụngắn chừng 1 phân, (lcm). Hoa nhỏ, màu trắng. Song bế quả hình trứng. Tại Sapa, Lào Cai đồng bào bảo vẫn có cây này mọc hoang, vừa khoảng hơn chục năm nay ta đã di thực trồng trên qui mô lớn.
– Thu hái: Bắt đầu thu hoạch từ sau 2 năm trồng
– Bào chế:
Xuyên khung, bỏ tạp chất chia loại lớn nhỏ, ngâm nước, phơi trong râm, thái miếng phơi khô.
Tửu xuyên khung:
Lấy xuyên khung đã cắt miếng phun rượu đều, phun vài lần, đặt vào nồi rang để sao đến lúc sớm cạnh làm mức (cứ 100 cân xuyên khung, thái miếng sao hết 12,8 cân rượu).
2. Tác dụng dược lý
1) Tác dụng đối với trung khu thần kinh:
Tinh dầu xuyên khung với liều nhỏ có tác dụng ức chế đối với hoạt động của đại não, nhưng đối với trung thu hô hấp, trung khu vận mạch và trung khu phản xạ ở tủy sống thì lại có tác dụng hưng phấn, kết quả làm cho con vật một phần yên tĩnh, tự động vận động giảm xuống. Nhưng mặt khác làm cho huyết áp tăng cao, hô hấp cũng tăng, cơ năng phản xạ cũng tăng. Nếu dùng liều cao thi đại não bị lệ liệt mạnh, các trung thu và phản xạ tủy sống có thể bị ức chế, do đó huyết áp hạ xuống, nhiệt độ cơ thể giảm xuống, hô hấp khó khăn, vận động có thể tê liệt và chết.
2) Tác dụng đối với tuần hoàn:
Tinh dầu xuyên khung có tác dụng tê liệt đối với tim, làm cho các mạch máu ngoại vi dãn ra, liều lớn có thể làm huyết áp hạ xuống (đã nói trên) phải chăng có liên quan tác dụng này. Có tác giả đã chiết xuất xuyên khung chế thành dung dịch 10% tiêm tĩnh mạch chó thỏ đã gây mê thì thấy huyết áp hạ xuống rõ rệt, có khả năng liên quan tới ảnh hưởng của trung thu thận kinh, có tác giả đã nghiên cứu 27 loại thuốc đông y làm hạ huyết áp trong đó có xuyên khung có tác dụng hạ huyết áp rõ rệt và kéo dài dù tiêm mạch máu hay tiêm bắp thịt cũng như nhau.
3) Tác dụng đối với cơ trơn:
Một số tác giả đã thí nghiệm: dùng dung dịch nước xuyên khung trên tử cung cô lập của thỏ đã có thai thấy với liều nhỏ có tác dụng kích thích sự co bóp của tử cung thỏ có thai, cuối cùng co quắp, nấu dùng liều lớn thì tử cung tê liệt và đi đến ngừng co bóp.
– Có tác giả đã thí nghiệm tiêm liên tục dung dịch xuyên khung cho thỏ và chuột trắng có chửa, thấy cái thai chết trong bụng mà không đẩy ra được, tác giả cho rằng xuyên khung gây co bóp tử cung ảnh hưởng tới dinh dưỡng của thai làm cho thai chết. Các tác giả còn cho rằng xuyên không làm dãn mạch máu cho nên không cầm máu được. Người xưa dùng xuyên khung cầm máu. Cho phụ nữ sau đẻ băng huyết, có thể do xuyên khung có khả năng làm co tử cung, làm cho mạch máu ở vách tử cung áp chặt vào vách tử cung mà gây cầm máu.
4) Tác dụng kháng khuẩn:
Xuyên khung có tác dụng kháng sinh đối với nhiều loại vi trùng như vi trùng thương hàn, phó thương hàn, vi trùng sinh mủ, thổ tả, ly sonner v.v…
Nước ngâm xuyên khung (1 : 1) trong ống nghiệm đối với 1 số fungus (chân lan) gây bệnh ngoài da có tác dụng ức chế. Ngoài ra, xuyên khung còn có tác dụng kháng lại chứng thiếu sinh tố E, nó có thể bảo hộ con gà mái tránh khỏi bệnh não kiểu doanh dưỡng do thiếu sinh tố E gây ra.
3. Vị thuốc Xuyên khung theo Đông y
– Tính vị: Cay, ấm.
– Vào kinh: Can, đởm, tỳ, tam tiêu.
– Công dụng chủ trị:
Hành khí, mở uất, trừ phong trào thấp, thông huyết ngừng đau, trị phong lạnh đầu đau xây xẩm, sườn đau, bụng đau, hàn tụ gân co, kinh bế, khó đẻ. sau để ứ trở thành cục đau, mụn nhọt lở loét.
+ Bản kinh: Chủ trúng phong vào não đầu đau, hàn tý. gân có hoàn cấp, vết chém, đàn bà huyết bị không con.
+ Biệt lục:
Trừ trong não lạnh động, trên mặt du phong đi lại, nước mắt ra, nhiều rãi và nước mắt, mọi khí hàn lạnh, tâm bụng cứng đau, trúng ác, thốt nhiên sưng đau gấp, sườn đau do phong, ẩm trung tiêu bị lạnh.
+ Đào Hoằng Cảnh: Chân răng ra máu, ngậm bột xuyên khung khỏi.
+ Dược tính luận: Trị eo lưng chân mềm yếu, bán thân bất toại, rau thai không ra, trong bụng lạnh đau.
+ Y học khái nguyên: Bổ huyết, trị huyết hư váng đầu.
+ Vương Hiếu Cổ: Quét khí can, bổ máu can, nhuận can táo, bố phong hư.
+ Nhật Hoa tử bản thảo:
Trị các loại phong, các loại khí, các loại lao tổn, các loại huyết, bổ 5 chứng lao, mạnh gân cốt, điều mọi mạch, phá trưng kết túc huyết, nuôi huyết mới, lớn thịt, mũi hồng, nôn máu, đái máu, trị rò, não ung phát bối, loa lịch bướu u, lở ghé cùng bài tiết mủ tiêu máu ứ..
+ Cương mục: Ráo thấp, ngừng tả lỵ, hành khí mở uất.
* Cách dùng lượng dùng:
Uống trong: – Sắc uống 4g – 12g/ngày, hoặc vào hoàn tán.
Dùng ngoài: Nghiền nhỏ xoa đắp.
* Kiêng kỵ:
Người âm hư hỏa vượng, trên thịnh dưới hư cùng khí nếu kỵ uống.
Bạch chỉ làm sứ, ghét hoàng liên, hoàng kỳ, sơn thù, sợ tiêu thạch, hoạt thạch, hoàng liên, phản lê lô.
Người khi đưa lên, đờm suyễn không nên dùng.
Người hỏa kịch trúng đầy, tỳ hư ăn ít, hỏa uất đầu đau đều cấm dùng.
4. Phương thuốc chọn lọc
1) Trị mọi phong công lên, đầu mắt tối nặng, thiên chính đầu thống, mũi tắc tiếng nặng, thương phong sốt cao, chân tay mình máy phiền đau, cơ nhục máu động, nhiệt cách mô đờm thịnh, đàn bà huyết phong công kích, ấn huyệt thái dương đau cùng với cảm phong khí
Lá bạc hà 8 lạng; Xuyên khung 4 lạng; Hương phụ tử 8 lạng; Kinh giới 4 lạng; Phòng phong 1,5 lạng; Bạch chỉ 2 lạng; Khương hoạt 2 lạng; Cam thảo 2 lạng
Cùng nghiền nhỏ, mỗi lần uống 1 đồng cân, sau bữa ăn, nước trà trong điều thuốc, thường uống đầu mắt trong sáng. (“Cục phương” Xuyên khung trà điều tán).
Ghi chú:
Bài này hương phụ tử 8 lạng có nơi dùng tế tân 1 lạng.
Công thức bài này:
Xuyên khung trà điều tán: xuyên khung.
Bạc, bạch, hoạt, giới, thảo, tế, phòng.
Phong hàn đầu thống đều chữa khỏi.
Công đã tan lạnh lại khu phong.
2) Trị thiên đầu thống: Xuyên khung thái nhỏ ngâm rượu uống (Đầu môn phương)
3) Trị đầu bị phong xây xẩm quay cuồng, ngoài hợp với dương khí, phong hàn cùng bác kích nhau, vị cách mô có đàm ẩm, thiên chính đầu đau, mình có cuốn:
Xuyên khung 1 cân; Thiên ma 4 lạng. Tán nhỏ trộn mật làm viên, mỗi lạng làm 10 viên, mỗi lần uống 1 lần, nhai kỹ, trà hay rượu điều ống sau bữa ăn.
(“Tuyên minh luận phương” Xuyên khung hoàn)
4) Trị phong nhiệt đầu đau: Xuyên khung cùng 1 đ.cân. Lá trà 2 đ.cân. Nước 3 bát sắc còn 1 bát uống nóng trước bữa ăn. (Giản tiện đơn phương)
5) Trị có mang trong bụng đau (bào trở):
Khung cùng 2 lạng; A giao 2 lạng; Cam thảo 2 lạng; Lá ngải 3 lạng; Thược dược 4 lạng; Can địa hoàng 6 lạng
Trên 7 vị lấy nước 5 thăng, rượu trong 3 thăng hợp chung sắc lấy 3 thăng bỏ bã, cho a giao vào cho tan hết, uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần, không khỏi lại uống.
(“Kim quỹ yếu lược” Giao ngải thang)
6) Trị đàn bà có mang 5 – 7 tháng, do va vấp động đến thai, hoặc con chết trong bụng, máu hội ra, đau đớn không ngừng, miệng cấm muốn tuyệt, dùng bài thuốc nào thăm nếu không tổn thương thì đau ngừng, con và mẹ đều lên, nếu thai tổn thương lập tức bèn ra:
Đương quy 6 lạng; Xuyên khung 4 lạng. Giã thô mỗi ngày uống 2 đ.cân, nước 1 bát nhỏ, sắc khiến sâm sấp khô, cho rượu 1 bát to vào, đun sôi thêm, bỏ bã, uống ấm.
Miệng câm cắn răng thì cậu răng đổ vào. Thấy như người đi 5 – 7 dặm, không qua 3 lần uống bèn khỏi. (Bản sự phương – Phật thủ tán)
7) Trị sau đẻ huyết vậng: Đương quy 1 lạng; Xuyên khung 5 đ.cân; Bông kinh giới (sao đen) 2 đ.cân. Sắc nước uống. (Kỳ phương loại biên)
8) Trị sau để tâm bụng đau:
Xuyên khung 1 lạng; Quế tâm (tránh lửa) 1 lạng; Mộc hương 1 lạng; Đương quy 1 lạng; Đào nhân (bỏ vỏ đầu nhọn, 2 nhân, sao vàng) 1 lạng
Cùng nghiền nhỏ. Mỗi lần uống 1 đồng cân, rượu nóng điều uống, nếu không biết uống rượu, thì dùng nước 1 chén to, thuốc bột 2 đ.cân, sắc còn 7 phân uống nóng.
(“Vệ sinh gia bảo phương” Xuyên khung tán).
9) Trị mới đẻ có hòn đau:
Đương quy 8 đ.cân; Xuyên khung 3 đ.cân; Đào nhân 14 hạt (bỏ vỏ đầu nhọn nghiền); Hắc khương 5 phân; Chích thảo 5 phân
Dùng rượu ngon, nước tiểu trẻ đều 1 nửa sắc uống. (“Truyền thanh chủ nam nữ khoa” Sinh hóa thang)
10) Trị trẻ con não nhiệt, chỉ thích nhắm mắt, thái dương đau hoặc mắt đỏ sưng:
Xuyên khung cùng 2 đ.cân; Bạc hà 2 để cân; Phác tiêu 2 đ.cân. Cùng nghiền nhỏ lấy chút ít thổi vào mũi. (Toàn ấu tâm giám)
5. Lâm sàng báo cáo
Chữa tim nhói đau:
Lấy xuyên khung; Hồng hoa lượng bằng nhau, chế thành thuốc phiến (cứ 12 phiến hàm chứa thuốc sống xuyên khung hồng hoa đều 5 đồng cân). Mỗi lần 4 phiến, ngày uống 3 lần, 4 – 6 tuần là một liệu trình..
Chữa 84 giường (trong đó 10 giường cả quá trình thêm cát căn, hoàng đồng phiến, mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 20mg; 2 giường sau 2 tuần dùng thuốc bắt đầu uống thêm nhũ một phiến). Kết quả công hiệu rõ 9 giường, cải thiện 57 giường, cơ bản vô hiệu 17 giường, thêm nặng 1 giường. Căn cứ quan sát thì bệnh tình nặng nhẹ cùng công hiệu chữa bệnh không có quan hệ rõ ràng, người uống thêm cát căn hoàng đồng và nhũ một phiến, công hiệu chưa thấy nâng cao. Sau uống thuốc đối với chất mỡ máu ảnh hưởng không lớn. 60 giường vốn uống nitroglycerin (tiêu toan cam du) trong quá trình chữa trị, ngừng dùng 20 giường, giảm lượng 15 giường. Một bộ phận giường bệnh tâm điện đồ rõ ràng chuyển tốt.
6. Các nhà bàn luận
1) Dược đối: Khung cùng, được tế tân thi chữa vết đâm chém ngừng đc 1. được mẫu lệ chữa đầu phong nôn ngược.
2) Y học khái nguyên nói: Chủ trị bí yếu nói: Khung Cùng cách dùng có 4: Dẫn kinh thiếu dương là một vậy, trị mọi đầu đau là 2 vậy, giúp thanh dương là 3 vậy. Chữa thấp khí ở đầu là 4 vậy.
3) Lý Hãn:
Đầu đau nên dùng xuyên khung. nếu không khỏi thêm dùng thuốc dẫn kinh, thái dương, khương hoạt. dương minh, bạch chỉ, thiếu dương sài hồ, thái âm xương truật, quyết âm ngô thù du, thiếu âm tế tân.
4) Đan Khê tâm pháp:
Xương truật phủ khung tổng giải mọi uất, tùy chứng thêm vào mọi thuốc. Phàm uất đều ở trung tiêu dùng xương truật phủ khung mở uất ra nâng khí lên.
Nguồn: L/Y Hy Lãn
Xem thêm: