Banner
Nếu bạn không phải là một thầy thuốc Đông y, bạn không được tùy ý sử dụng các bài thuốc, vị thuốc trên website yhctvn.com để điều trị bệnh cho bản thân và người khác. Hãy đưa bệnh nhân tới khám và điều trị tại các cơ sở y tế, hoặc cá nhân có chuyên môn.

Vị trí huyệt Khúc trì 曲 池 (27 phương phối hợp)

by Lê Quý Ngưu

Vị trí huyệt Khúc trì 曲 池 (LI 11 Qù chi (Tsiou Tchre))– Huyệt ở chỗ lõm (giống cái ao = trì) khi tay cong (khúc) lại, vì vậy gọi là Khúc Trì.

1. Đại cương

Tên Huyệt: Huyệt ở chỗ lõm (giống cái ao = trì) khi tay cong (khúc) lại, vì vậy gọi là Khúc Trì. Chỗ hõm nơi huyệt này được người ta ví với một cái ao. Khi khuỷu tay gập cong lại nơi đó có chỗ hõm nên gọi là Khúc trì (Ao cong)

Tên Khác: Dương Trạch, Quỷ Cự.

Xuất Xứ: Thiên ‘Bản Du’ (LKhu.2).

Đặc Tính:

+ Huyệt thứ 11 của kinh Đại Trường.

+ Hợp huyệt, thuộc hành Thổ.

+ Huyệt Bổ của kinh Đại Trường.

+ Huyệt này với các loại bệnh chứng đều có thể phối hợp trị liệu có tính cách toàn thể.

+ Yếu huyệt trị bệnh ngoài da, bệnh mắt, dự phòng hóa mủ (Châm Cứu Chân Tủy).

2. Vị trí huyệt Khúc trì

Xưa: ngoài khuỷu tay, giữa xương khuỷu tay và xương quay. Khi điểm phải co tay vào ngực, chỗ hõm đầu ngấn ngang với mặt ngoài khuỷu tay khi co lại

Nay: Co khuỷ tay vào ngực, huyệt ở đầu lằn chỉ nếp gấp khuỷ, nơi bám của cơ ngửa dài, cơ quay 1, cơ ngửa ngắn khớp khủy.

huyệt khúc trì

Vị trí huyệt Khúc trì

3. Cách lấy huyệt Khúc trì

Co khuỷu tay vuông góc, chỗ giữ đầu nếp gấp khuỷu tay và lồi cầu xương cánh tay là huyệt.

Giải phẫu, Thần kinh. Dưới huyệt là chỗ bám của cơ ngửa dài, cơ quay 1, cơ ngửa ngắn khớp khuỷu – Thần kinh vận động cơ là các nhánh của dây thần kinh quay. Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh C6.

4. Tác dụng chủ trị và phối hợp huyệt

Tác Dụng: Sơ tà nhiệt, Giải biểu, Khu phong, Trừ thấp, Thanh nhiệt, Tiêu độc, Hòa vinh, Dưỡng huyết.

Hiệu năng của huyệt Sơ tà nhiệt, lợi quan tiết, đuổi phong thấp, thanh nhiệt, hòa vinh dưỡng huyết, khu phong giải biểu.

  1. Tại chỗ Đau khuỷu tay.
  2. Theo kinh Liệt chi trên, đau thần kinh vai, đau cánh tay, họ.
  3. Toàn thân Viêm phổi, cảm cúm, thương hàn, ngứa ngáy, dị ứng.

Chủ Trị: Trị khuỷ tay đau, cánh tay đau, chi trên liệt, vai đau, sốt, cảm cúm, dị ứng, ngứa, da viêm, huyết áp cao.

  1. Phối Thiên Liêu (Ttu.15) trị vai đau không giơ lên được (Thiên Kim Phương).
  2. Phối Dương Lăng Tuyền (Đ.34) trị bán thân bất toại (Châm Cứu Tụ Anh).
  3. Phối Phục Lưu (Th.7) + Tam Lý (Vi.36) trị thương hàn sốt cao (Châm Cứu Đại Thành).(+ Hợp Cốc)
  4. Phối Hợp Cốc (Đtr.4) trị họng sưng nghẹt (Châm Cứu Đại Thành).
  5. Phối Ngư Tế (P.10) + Thần Môn (Tm.7) trị nôn ra máu (Châm Cứu Đại Thành).
  6. Phối Xích Trạch (P.5) trị khớp khuỷ tay đau (Ngọc Long Ca). (Bách Chứng Phú).
  7. Phối Hợp Cốc (Đtr.4) + Kiên Ngung (Đtr.15) trị cánh tay đau nhức (Thắng Ngọc Ca).
  8. Phối Gian Sử (Tb.5) + Hậu Khê (Ttr.3) trị sốt không hạ (Loại Kinh Đồ Dực).(+ Thiếu Xung)
  9. Phối Bách Hội (Đc.20) + Khúc Trì (Đtr.11) + Kiên Ngung (Đtr.15) + Phát Tế + Phong Trì (Đ.20) + Túc Tam Lý (Vi.36) + Tuyệt Cốt (Đ.39) có tác dụng phòng ngừa trúng phong (Vệ Sinh Bảo Giám).
  10. Phối Đại Lăng (Tb.7) + Hợp Cốc (Đtr.4) +) Khổng Tối (P.6) trị tay yếu mỏi (Trung Quốc Châm Cứu Học)
  11. Phối Hợp Cốc (Đtr.4) + Ngoại Quan (Ttu.5) + Thiên Tỉnh (Ttu.10) + Xích Trạch (P.5) trị cánh tay đau (Trung Quốc Châm Cứu Học Khái Yếu)
  12. Phối Hợp Cốc (Đtr.4) + Khúc Trạch (Tb.3) + Uỷ Trung (Bq.40) trị đơn độc, phong ngứa (Trung Quốc Châm Cứu Học Khái Yếu).
  13. Phối Huyết Hải (Ty.10) + Uỷ Trung (Bq.40) trị lưng có nhọt (Trung Quốc Châm Cứu Học Khái Yếu).
  14. Phối Can Du (Bq.18) + Uyển Cốt (Ttr.4) trị mắt chảy nước (Châm Cứu Học Thượng Hải).
  15. Phối Đại Chùy (Đ.14) + Túc Tam Lý (Vi.36) trị phong ngứa, mề đay, dị ứng (Châm Cứu Học Thượng Hải).
  16. Phối Huyết Hải (Ty.10) + Thái Xung (C.3) trị dị ứng (Châm Cứu Học Thượng Hải).
  17. Phối Hợp Cốc (Đtr.4) trị bụng đau (Châm Cứu Học Thượng Hải).
  18. Phối Ấn Đường + Đại Chùy (Đc.14) + Thiếu Thương (P.11) trị ban chẩn (Châm Cứu Học Thượng Hải).(+Hợp Cốc)
  19. Phối Đại Chùy (Đc.14) + Hợp Cốc (Đtr.4) + Thập Tuyên trị sốt cao (Châm Cứu Học Thượng Hải).
  20. Phối Nhân Nghênh (Vi.9) + Túc Tam Lý (Vi.36) trị huyết áp cao (Châm Cứu Học Thượng Hải).
  21. Phối Đại Chùy (Đc.14) + Hợp Cốc (Đtr.4) + Thái Xung (C.3) +Túc Tam Lý (Vi.36) trị tím tái do tiểu cầu giảm (Châm Cứu Học Thượng Hải).
  22. Phối Âm Lăng Tuyền (Ty.9) + Đại Chùy (Đc.14) + Huyết Hải (Ty.10) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Túc Tam Lý (Vi.36) trị ban sởi (Châm Cứu Học Thượng Hải).
  23. Phối Dương Trì (Ttu.4) + Hợp Cốc (Đtr.4) + Thu? Tam Lý (Vi.36) + Uyển Cốt (Ttr.4) trị tay và ngón tay co rút (Châm Cứu Học Thủ Sách)
  24. Phối Hạ Liêm (Đtr.9) + Uỷ Trung (Bq.40) trị bệnh tê do phong, hàn, thấp (Phối Huyệt Khái Luận Giảng Nghĩa).
  25. Phối Dương Lăng Tuyền (Đ.34) trị run giật, đau nhức toàn thân, các chứng phong thấp (Phối Huyệt Khái Luận Giảng Nghĩa).
  26. Phối Hợp Cốc, Dương Cốc trị co rút gân ngón
  27. Phối Khúc Trì, Tý Nhu trị loa dịch

Châm Cứu :

Châm Huyệt này thắng tới huyệt Thiếu hải sâu 2 – 2,5 thốn, tại chỗ có cảm giác căng tức có khi có cảm giác như điện giật đến vùng vai hoặc xuống đến ngón tay. Có khi châm thẳng hơi xiên xuống ngón tay, sâu 1,5 – 2,5 thốn có cảm giác mút chặt căng lan ra có khi tới trước cánh tay hay vùng tại 

– Trong trường hợp trị liệt chi trên, châm mũi kim hơi hướng xuống mặt cong của khớp khuỷu sâu 0,5 – 1 thốn, có cảm giác như điện giật xuống mút ngón tay.

Cứu: 3 – 7 lửa.

Ôn cứu: 5 – 20 phút.

Ghi Chú : Trong trường hợp châm chữa chi trên liệt, châm mũi kim hơi hướng xuống mặt cong của khớp khuỷ (có cảm giác như điện giật xuống ngón tay).

5. Tham Khảo

1. <<Giáp ất>> Quyển thứ 7 ghi rằng: “hàn dư nhiệt chưa dứt dùng Khúc trì để trị”.

2. <<Giáp ất>> quyển thứ 8 ghi rằng: “Trong ngực đầy tức, đau trước tai, đau răng, đau đỏ mắt, sưng cổ, nóng lạnh, khát uống nước vào thì mồ hôi ra, không uống thì da khô nóng, dùng huyệt Khúc trì làm chủ”. Do lòng tin

3. <<Giáp ất>> quyển thứ 10 ghi rằng: “Đau ở trong vai khuỷu tay khi co duỗi, tay không đưa lên cao được, cổ tay nặng dùng Khúc trì làm chủ”.

4. <<Giáp ất>> quyển thứ 11 ghi rằng: “Mắt không rõ ràng, đau cổ tay cấp, mình nóng nổi nóng điên cuồng, yếu liệt chân, chân đi khập khểnh, bại xuội, dùng huyệt Khúc trì làm chủ”.

5. <<Thiên kim>>: Trị bướu ác tính, nốt đỏ dưới da (ẩn chẩn), tùy theo số tuổi mà cứu mấy lửa”.

6. <<Đại thành>> quyển thứ 6 ghi rằng: “Khúc trì chủ trị về phong quanh khớp mắt cá chân, tay cánh tay sưng húp, dau trong khuỷu tay, bán thân bất toại, tà khí phong độc, chảy nước mắt sống, hay quên, phong mề đay, sưng tắc họng, không nói được, trong ngực bồn chồn bức rức, tay dùi đau nhức, gân yếu cầm vật khó khăn, kéo cung không lên, co duỗi khó khăn, phong tê, khuỷu tay teo cơ yếu sức, thương hàn dư nhiệt chưa dứt, da dẻ khô táo, điên rồ co rút (hystéria), đau ngứa trong người như có con gì bò, lột da thành lở, da dẻ nổi vảy ngứa, đàn bà kinh nguyệt không thông”.

7. <<Tiêu u phú>> ghi rằng: “Huyệt Kiên tỉnh, Khúc trì. Chân Quyền dùng kim châm trị đau cánh tay nhờ đó mà bắn được cung” (Kiên tỉnh, Khúc trì, Chân Quyền thích lý thống như phục xạ).

8. <<Trửu hậu ca>> ghi rằng: “Đầu gối sưng dau như chân hạc, đi đứng khó khăn, huyệt Xích trạch có thể thư cân giảm đau nhức, kết hợp thêm Khúc tri lại có hiệu quả hơn, phải nên tìm gốc mà trị” (Hạc tất thũng thống nan di bộ, Xích trạch năng thư cần đông thống, cánh hữu nhất huyệt Khúc trì diệu, tầm căn nguyên lưu khả diều đình)

9. Sách “Thiên kim” còn gọi Khúc trì là Quỷ cự, “Thiên kim dục” gọi là Dương trạch.

10. Căn cứ theo “Linh khu – Bản du” thì huyệt này là “Hợp” huyệt của Thủ Dương-minh kinh.

11. Huyệt Khúc trì có công năng sơ phong giải biểu, thanh nhiệt lợi thấp, điều hòa trường vị, nó chẳng những trị được chứng giãn gần teo cơ, bán thân hoặc co quắp chi trên, huyệt hay dùng trong với các chứng bệnh thuộc kinh lạc, mà lại còn đối với các chứng trên chính ở phủ Đại trường của nó, như trên mửa dưới ỉa, bón, kiết lỵ, trường ung cũng như các loại bệnh của phế như ho, đau họng, đau sưng tắc họng cũng có hiệu quả rất tốt. 12. Theo “Học viện y học Thẩm dương – Trung quốc”, châm huyệt Khúc trì và Túc Tam-lý làm cho gốc sunfit trong máu tăng lên.

13. Theo trường phái châm cứu Trạch Điền, thường dùng cứu, đây là yếu huyệt trị bệnh ngoài da, bệnh mắt, dự phòng hóa mũ. Cứu huyệt này có thể làm cho sáng mắt, rõ mắt. Huyệt này với các loại bệnh chứng đều có thể phối hợp trị liệu có tính cách toàn thể.

14. <<Phối huyệt khái luận giảng nghĩa>>: Phối hai huyệt Khúc trì và Hợp cốc, vì cả hai huyệt này đều thuộc Thủ Dương minh kinh nên chủ khí. Khúc trì chạy bao biến chỗ này qua chỗ khác chứ không giữ yên một nơi cố định. Hợp cốc hay bốc lên và tán ra ngoài. Hai huyệt ấy hợp với nhau thường thanh được nhiệt, tán được phong. Đó là phép trị rất thần hiệu để làm cho thượng tiêu được nhẹ mát, dựa vào lẽ khí khinh thanh thường hay bốc lên. Đầu là chỗ các dương kinh tụ hội, mà tai, mắt, miệng, mũi và yết hầu lại cũng đều là thanh khiếu.

Bởi thế, phàm huyệt nào có bẩm cái khí thanh dương đều hay chạy Iên các thượng khiếu ở đầu mặt. Dùng cái nhẹ và hay bốc lên của Hợp cốc để giúp sức chạy của Khúc trì lên trên các “Khiếu” ở đầu mặt để thực hiện tác dụng thanh tán, người ta có thể trục đuổi được tất cả các thứ tà uế, tiêu trừ được tất cả các rối loạn trở ngại. Tuy vậy, hai huyệt ấy mặc dầu có tính hay đi lên, nó không có mục đích nhất định, bởi vậy muốn chuyên đạt đến một chỗ nhất định nào thì lẻ tất nhiên phải dùng thêm một vài huyệt làm hướng đạo như thế đường đi sẽ ngắn lại, sức mạnh sẽ dồn vào cả một nơi, công hiệu như thế hẳn sẽ mau thấy vậy. Bởi thế nếu là đau đầu chóng mặt thì phải dùng thêm huyệt Phong trì, Đầu duy, mắt đỏ và có vảy cá thì phải dùng thêm Ty-trúc không, Tình minh. Trí mũi, tỷ uyên thì phối với Nghênh hương, Hòa liêu. Ù tai, điếc tai thì Thính hội, Ế phong. Miệng hôi, lưỡi nứt thì Thủy cấu, Lao cung. Sưng yết hầu, nghẹt họng thì Ngư tế, Giáp xa. Nhức răng, sưng lợi thì Hạ quan. Miệng méo mắt xếch thì Địa thương. Đó là quân thần hợp lực, tiêu bản cùng trị còn bệnh gì là không lành ?

15. <<Phối huyệt khái luận giảng nghĩa>>: Tê là một bệnh do phong, hàn và thấp hợp lại mà sinh ra. Nếu phong khí thắng thì thành bệnh “Hành tý” vì lẽ phong có tính hay chạy, hàn khí thắng thì thành bệnh “Thống tý” vì lẻ hàn khí hay ngưng kết, thấp khí thắng thì thành “Trước tý” vì lẽ thấp khí hay nặng nề. Dùng phép phối hợp Khúc trì, Ủy trung, Hạ liêm làm chủ để trị bệnh Tê là nhờ có Khúc trì khu phong hành thấp. Uy trung sơ phong để lợi thấp. Hạ liêm thông dương để thẩm thấp, nếu hàn khí thắng thì kiêm dùng cả bổ lẫn tả. Tán hàn, khu phong và tán hàn, đồng thời dùng thêm các huyệt làm cho kinh được thư, lạc được thông, mà kinh lạc đã thư thông thì bệnh tê làm sao còn được nữa ?

16. <<Phối huyệt khái luận giảng nghĩa>>: Phối hai huyệt Khúc trì và Dương Lăng-tuyền là vì Khúc trì ở tại bên trong cùi tay. Dương Lăng Tuyền thì lại nằm ở dưới đầu gối. Khuỷu tay và đầu gối, cả hai đều là chỗ quan tiết trọng yếu của cơ thể. Khúc trì hành huyết, thông kinh lạc,

Dương Lăng tuyền sơ kinh lợi tiết, cả hai đều có công dụng tuyên thông hạ giảng, thành thử phối hợp lại nó giúp sức cho nhau làm cho công hiệu càng thêm rõ rệt. “Bách chứng phú” bảo phép này trị được bán thân bất toại, đó là nói về cái công dụng chủ yếu. Vì suy rộng ra ta có thể hiểu là nó còn trị được các chứng như run giật, đau nhức khắp toàn thân và các chứng phong thấp. Hơn nữa, hai huyệt này lại còn có công dụng giáng trọc tả hỏa. Khúc trì thanh phế và chạy ra phần biểu, Dương Lăng Tuyền tả can và đởm đế làm cho bên trong được yên. Nói rộng ra thì hễ can phế uất ức, dau trong hông ngực hoặc nhiệt khí kết ở trường vị, sình bụng, nước tiểu dục… mà dùng sức thanh lợi sơ tiết của phép này thì chẳng chứng nào là không công hiệu. Xem đó ta thấy là cái hay của huyệt là do ở chỗ biết phối hợp mà dùng vậy.

17. <<Phối huyệt khái luận giảng nghĩa>>
Phối hai huyệt Khúc trì và Tam âm giao là vì một âm, một dương cùng nhau phối ngẫu. Khúc trì tính hay chạy, thông suốt chỗ này qua chỗ khác nên thanh được nhiệt khu được phong. Tam âm giao tức là chỗ tụ hội của cả tam âm, là chỗ mở đóng của ba kinh Can, Tỳ và Thận; lại cũng là chủ huyệt của huyết. Hai huyệt ấy phối hợp với nhau: Khúc trì nhập vào địa phận của tam âm, cho nên hay làm mát dịu được nhiệt khí ở trong huyết, giải trừ được cái phong ở trong huyết làm cho ứ huyết phải tan, sự vận hành của huyết nhờ đó không còn bị trở ngại nữa. Bởi thế, nên gặp các chứng sưng đau mà dùng phép này thì có hiệu quả, chứng lở láy vì độc dương mai còn lại, dùng phép này độc được tiêu trừ, mà lở cũng khỏi. Ngoài ra các chứng tê vì phong ôn, đau lưng, húp chân do cước khí, rung giật cho đến các chứng băng huyết, bạch đới của đàn bà như trừng hà, tích tụ, bế kinh… mà dùng phép này thấy đều công hiệu.

18. ( “Châm trị huyết áp không ổn định do mạch máu não hình thành : Châm Khúc Trì và Túc Tam Lý thường thấy huyết áp hạ xuống”( Thường Dụng Du Huyệt Lâm Sàng Phát Huy).

19. (“Khúc Trì phối Tam Âm Giao thường dùng trị bệnh ngoài da có kết qủa tốt. Vì Khúc Trì chủ yếu để khứ phong, thanh nhiệt, còn Tam Âm Giao là huyệt chủ yếu trị bệnh về huyết, có tác dụng hành thấp. Bệnh ngoài da đa số do phong, thấp, nhiệt và huyết, do đó, nếu tả 2 huyệt này có tác dụng khứ phong, hành huyết , trừ thấp, giảm ngứa. Tả Khúc Trì + bổ Tam Âm Giao (Ty.6) có tác dụng khứ phong, dưỡng huyết” (Du Huyệt Công Năng Giám Biệt).

Xem thêm:

Bạn có thể quan tâm

Zalo
Liên Hệ