Huyệt Thượng cự hư – Huyệt ở phía trên (thượng) so với Hạ Cự Hư, nằm giữa xương mác và chày, nơi có khe hở (hư) lớn (cự), vì vậy gọi là Thượng Cự Hư để so sánh với Hạ Cự Hư
Mục Lục
1. Đại cương
Tên Huyệt: Huyệt ở phía trên (thượng) so với Hạ Cự Hư, nằm giữa xương mác và chày, nơi có khe hở (hư) lớn (cự), vì vậy gọi là Thượng Cự Hư để so sánh với Hạ Cự Hư
Tên Khác: Cự Hư Thượng Liêm, Túc Chi Thượng Liêm.
Xuất Xứ : Thiên Kim Dực.
Đặc Tính :
+ Huyệt thứ 37 của kinh Vị.
+ Huyệt Hợp ở dưới của Đại Trường.
+ Châm trong các bệnh về Đại Trường (Thiên ‘Tà Khí Tạng Phủ Bệnh Hình’ (LKhu. 4).
2. Vị trí huyệt Thượng cự hư
Xưa: Dưới Túc Tam Lý 3 th.
Nay: Dưới mắt gối ngoài (Độc Tỵ) 6 thốn, phía mào trước xương chày1 khoát ngón tay, dưới huyệt Túc Tam Lý (Vi.36) 3 thốn.
Giải Phẫu: Dưới da là bờ ngoài cơ cẳng thân trước, bờ trong cơ duỗi chung các ngón chân, khe giữa xương chầy và xương mác.
Thần kinh vận động cơ là các nhánh của dây thần kinh chầy trước. Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh L5.
3. Tác dụng chủ trị và phối hợp huyệt
Tác Dụng : Lý trường, hòa Vị, thanh thấp nhiệt, tiêu trệ, điều khí.
Chủ trị: Trị bụng đau, tiêu chảy, ruột thừa viêm, liệt chi dưới.
Phối Huyệt :
- Phối Hạ Cự Hư (Vi.39) trị chứng đổng tiết [tiêu chảy phân sống] (Châm Cứu Đại Thành).
- Phối Thiên Khu (Vi.25) trị ruột viêm, viêm đại tràng cấp ,mạn tính
- Phối Đại Trường Du trị phù thũng.
- Phối Chi Câu trị táo bón.
Châm Cứu: Châm thẳng 1 – 1,5 thốn, Cứu 3 – 7 tráng, Ôn cứu 5 – 15 phút.
Ghi Chú : Trong bệnh ruột dư viêm, có điểm đau tương ứng ở vùng huyệt Thượng Cự Hư, ruột dư hết đau thì điểm đau này cũng hết (Châm Cứu Học Từ Điển).
Tham Khảo :
( “Thiên ‘Tà Khí Tạng Phủ Bệnh Hình’ ghi: “Mùa đông trúng cảm hàn khí bị tiêu cha?y, đau ngay rốn, không thể đứng lâu được, cùng 1 chứng hậu với Vị, nên châm huyệt Cự Hư Thượng Liêm [Thượng Cự Hư ]“(LKhu 4, 109).
( Thiên ‘Hải Luận’ ghi: “Thượng Cự Hư hợp với Đại Trữ và Hạ Cự Hư làm thành ‘Biển của 12 kinh – Thập nhị kinh chi Hải’ (LKhu 33, 11).
( “Thiên ‘Thủy Nhiệt Huyệt Luận’ ghi : “Cự Hư Hạ Liêm, Cự Hư Thượng Liêm, Khí Nhai [Khí Xung], [Túc] Tam Lý để tả nhiệt ở Vị” (TVấn 61, 19).
Xem thêm: