Phương pháp luyện khí của Thái Thượng Lão Quân
Ngũ vị lục dục, thất tình làm thương tổn 5 tang ở trong làm hại 9 khiếu ở ngoài, do đó mà sinh ra mọi bệnh tật. Cho nên Thái thường dùng phương pháp luyện khí để chữa, bệnh ở tạng phủ. Phép lấy dùng cách thở ra cốt để tiết khi đọc ở tạng phủ ra, dùng cách hít vào để thu lấy tinh khí của trời đất bù vào, có thể sau một ngày đã thấy hiệu nghiệm nhỏ, sau một tuần đã thấy hiệu nghiện lớn và sau một năm thi mọi bệnh đều hết mà càng tăng tuổi thọ.
Thở ra có 6 lõi: “hà” là hà hơi ra, “hu” là thở phào ra, “xư” là thở ngắn, “hư” là thổi ra từ từ, “xuy” là thổi phù ra”, “hy” là thở rền ra điều hòa, “hấp” là hít vào chỉ có một lối mà thôi. Tất cả những lỗi này cần phải nhẹ nhẹ đưa ra, hít vào, đừng để tai nghe tiếng, vì hơi thở mạnh thì tồn tâm khí, chi thở không thì có ích.
Từ giờ tý đến giờ tỵ là dương, từ ngọ đến giờ hợi là âm. vào giờ dương thi hướng về phía đông, ngồi ngay ngắn, nuốt nước miếng, sau mới hà hơi độc ở trong tâm ra, ngẩng đầu hít khí trong để bù vào, làm như thế 6 lượt. Rồi hu thở phào hơi độc ở trong tỳ ra, lại hít khí trong để bù vào, làn 6 lượt. Lại hít thở nhẹ hơi độc trong phế ra, hít khí trong để bù vào 6 lượt. Đến hư thổi từ từ khí độc ở trong can ra, lại hít khí trong để bù vào 6 lượt. Kế đến xuy thổi phù để khí độc ở trong thận ra nhà hít khí trong bù vào, cũng là 6 lượt. Thể gọi là 36 vòng “tiểu chu thiên địa”. Lại xem chứng trạng ở tạng nào, ví dụ như bệnh ở nhất, thì phải nhận lại 2 chữa “hu” “hy” mỗi chữ 18 lượt, đều hít để bù vào. Thể gọi là “trung chu thiên địa”. Xong, lại theo như phương pháp trước, dùng chữ “hà” “hu”, thở ra hít vào. Thể gọi là vòng “Đại chu thiên địa”.
Sau giờ ngọ thuộc ân, phải hướng về phía nai nhà làm. Nam phương hỏa tức là tiêu âm rồi. Sáng sớm dậy ngồi ngoảnh mặt về hướng đông, dùng 6 chữ trên này, mỗi chữ cũng là 6 lượt như thể chữa cũng được đau mắt. Phàm mọi chứng đau mắt, duy có phương pháp này có thể chữa được. Thật là thành điệu, không nên khinh thường.
Mục Lục
1. Nước miếng trào ra trừ được lo về sau
Sáng sớm khi thức dậy, đẹp hết suy nghĩ. Cong lưỡi đưa lên trên vòm ngậm miệng, thở nhịp nhàng, nước miếng tự nhiên chảy ra, dần dần đầy, mồm chia làm 3 phần cố ý nuốt xuống. Làm như thể được lâu mãi thì tà hòa ở 5 tạng không bốc nóng, khí huyết ở tứ chi được lưu thông, mọi bệnh tật không sinh ra, khỏi lo về sau, già mà không yêu.
Thơ rằng:
Ngạc thương sinh tân vị ngọc tuyền,
Thời thường yến thấu hạ Đàn Điền,
Tạng trung sướng mỹ vô ngưng trệ,
Bách nhật công hoàn mệnh thọ diễn.
Tạm dịch:
Nước miếng trên hàm gọi ngọc tuyền,
Thường nên ngậm nuốt xuống Đan Điền,
Suốt thông năm tạng không ngưng trệ,
Công luyện trăm ngày tuổi thọ bền.
2. Vỗ bụng, hà hơi tiêu tích tụ
Có khi vì ăn mà sinh ra tích trệ, cũng có khi vị khí (hơi) mà sinh tích trệ, dần dần tỳ vị bị thương tổn, thuốc chữa khó lành. Chi bằng tiết chế ăn uống, răn ngừa tức giận, chớ để cho tích tụ là hơn. Ai mắc phải bệnh này, nên nên hơi, tự điều khiển cho ngực bụng chuyển động, đợi đến lúc khỉ đầy rồi sẽ từ từ hà ra. làm như thế 5-7 lượt sẽ được thông lợi khoan khoái.
Thơ rằng:
Khí trệ tỳ hư thực tích nhiều,
Hung trung cổ muộn tối nan điều,
Từ từ hả, cổ, tiêm thông sướng,
Tâm thái, thần yên, tật đốn tiêu,
Tạm dịch:
Khi trệ, tỳ hư, thực tích đầy,
Trong lòng buồn bực, chữa sao đây,
Dần dần hà, chuyển, ngầm thông lợi,
Tâm nhẹ, thần yên, bệnh đỡ ngay
3. Phép cúi đầu chữa bệnh ngoại cảm (thương hàn)
Do nguyên khí suy yếu, nên chân lông thớ thịt sơ hở mà dễ cảm nhiễm phong hàn, Người mắc bệnh này, ngồi ngay ngắn, xếp chân bàn tròn, lấy 2 tay ôm chặt vào bộ phận sinh dục, ngậm miệng nín thở, tưởng tượng đến chân khí, ngầm điều khiển luồng khí chạy từ đốt xương cùng lên qua xương sống thấu lên tới bộ “nê hoàn”, để đuổi tà khí, rồi cúi đầu, uốn lưng ngửa mặt lên, như động tác làm lễ lạy, không kể bao nhiêu lượt, cho đến khi mồ hôi toát ra thì thôi, sẽ khó bệnh.
Thơ rằng:
Gia phụ đoan tọa hướng bồ đoàn
Thủ ốc, âu nang khi sử hoàn
Khuất ức để đầu tam thất biến
Đốn linh hàn tật lập thời an.
Tạm dịch:
Bàn tròn xếp vế, cách ngồi ngay;
Tay ấp âm nang luyện khí này,
Cúi đầu, ngẩng đầu ba bảy lượt,
Tức thời hàn tật được yên ngay.
4. Phép gõ răng trừ bệnh đau răng.
Bệnh đau răng là do hỏa ở tỳ vị bốc lên. Mỗi sáng khi ngủ dậy, gõ răng vào nhau 36 lượt, lấy lưỡi đi vào chân răng, không kể bao nhiêu lần, đến khi nước miếng trào ra đây mình sẽ nuốt xuống, làm như vậy 3 lượt thì thôi. Khi đi tiểu, nên nói miệng cắn răng cho đến lúc đói xong, thì sẽ không đau răng.
Thơ rằng:
Phong nhiệt huân chưng xỉ bất ninh
Xâm thân khấu thầu Ngọc tuyệt sinh
Nhược giao vật dụng thường vô cách
Hoàn hứa tha niên lão phục đinh
Tạm dịch:
Phong nhiệm làm răng nhức nhối quanh,
Ban mai, gõ nuốt Ngọc tuyển sinh,
Ví bằng vận động thường liên tục,
Già đến, hàm răng vẫn tốt lành.
5. Phép vận chuyển con mắt chữa màng mộng
Vì thương nhiệt, thượng khí, can thận hư tổn thì con nhất sinh mờ tối hoặc có màng che. Lâu ngày không chữa được thì dễ sinh thong manh hay mù. Phép chữa cứ nối sáng sớm, dậy ngồi xếp bàn, nín thở, buông mí mắt, vận chuyển 2 con nát 14 lần, nhắm kín ít lâu rồi bỗng nở to ra. Chịu khó làm như vậy, thì nội chứng màn nhộng tự nhiên tiêu tan Kiêng nhất là sắc dục và viết chữ nhỏ.
Thơ rằng:
Hỷ nộ tha nhân hôn ế sinh
Liên thùy sung túc vận song tinh
Tinh ngưng, khí hóa, thần lại phục
Can thận hòa bình nhãn tự tinh
Tạm dịch:
Mắt kém còn do sự giận vui
Buông mi, nín thở, vận con người
Ngưng tinh, hóa khí, thần hồi lại
Can thận hòa bình lại sáng ngời.
6. Phép bịt tai chữa chóng mặt
Phong tà nhiễm vào não mà hư hỏa bốc lên, cho nên mất tối sầm mà đầu choáng váng đau nửa đầu hoặc cả đầu. Lâu ngày thì biến thành chứng trúng phong, không nói được bại liệt nửa người. Phép chữa phải ngồi yên lặng, thân thể ngay ngắn, nín hơi, lấy 2 ngón tay bịt tai, lắc đầu 5-7 lượt, tưởng tượng đến nguyên thần, rồi khiến đưa ngược lên chỗ giữa 2 lông mi (nên hoàn) để đuổi tà ra, phong tà sẽ tự nhiên tiêu tan.
Thơ rằng:
Hư hỏa hôn phong tỉnh phất văn
Tu tồn thần dĩ trực tà phân
Cánh vô tinh tán, vô thư tán
Khả bọc Bồng lai cảnh thương nhân
Tạm dịch:
Hư hỏa làm cho choáng mặt mày
Thần kia luyện được đuổi tà ngay
Tinh không tan rã, hư liền hết
Nên học bồng lai (cõi tiên) những bậc thầy
7. Phép giơ đạp cho nhẹ xương
Chân tay cũng cần được lao động nhẹ, vị như cái then cửa đẩy ra đẩy vào luôn, nên không bị mối mọt như phép diễn tập theo thể gấu, thể chim và phép hít thở đạo dẫn, đều là thuật dưỡng sinh cả. Ngày thường nên giơ 2 tay, lên như vẻ nhắc hòn đá to, 2 chân đạp lên phía trước như bước lên mặt đất. Khi đó tưởng tượng đến thần khí, dựa theo bốn mùa mà dùng cách thở “hư”, “hà”. 14 lượt, thì thân thể nhẹ nhàng khỏe mạnh, đủ sức chịu đựng với nóng lạnh.
Thơ rằng:
Ngũ tạng hòa bình tinh khi tồn
Tứ chi hoàn cố cốt cường kiên
Tuy nhiên vị đắc dao khuê nhị
Thả trú nhân gian tác địa tiên
Tạm dịch:
Năm tạng hòa bình tăng khi cường
Tứ chi vững chắc rắn gân xương
Dù chưa lượm được liều tiên dược
Thì cũng địa tiên ở thế gian
8. Phép vuốt xoa mặt cho tươi đẹp
Nhan sắc tiều tụy là do nghĩ suy quá độ và lao lực quá mức, không biết giữ sức. Mỗi buổi sớm ngồi yên tỉnh nhắm mắt, tập trung tinh thần, nuôi dưỡng thần khí cho đầy đủ để cung ứng từ trong tới ngoài. Xát 2 tay vào nhau cho nóng vuốt lên mặt 7 lượt. Cứ làm như vậy trong nửa tháng thì da dẻ bóng nhuần dung nhan tươi đẹp, khác hẳn mọi khi,
Thơ rằng:
Quả dục, tâm hư, khí huyết dinh
Tự nhiên ngũ tạng đặc hòa bình
Dung nhan trương thử tàng quang trạch
Bất tiền nhân gian ngũ đẳng vinh
Tạm dịch:
Ít dục, tâm nhân, khí huyết thêm
Tự nhiên năm tạng được êm đềm
Dung nhan nhờ thế thêm tươi đẹp
Ngũ phúc trần gian khang thọ kiêm
9. Phép nín thở xoa vuốt để thông khí trệ
Khi ngưng trệ thì đau, huyết ứ trệ thì sưng, phải nên cẩn thận mới được. Muốn chữa những chứng này, phải lấn tâm nín thở, dùng tay trái xoa xát vào chỗ ngưng trệ 49 lượt, tay phải cũng làm như vậy, rồi súc lấy nước miếng mà bôi vào, làm như thế liên tục trong 7 ngày thì khí huyết thông lợi, sẽ không phải lo đến chứng ngưng trệ nữa, Nhà tu dưỡng vẫn gọi cách này là “tắm khô” cũng trong ý nghĩa đó.
Thơ rằng:
Vinh vệ lưu hành bất tạm hưu
Nhất tài ngưng trệ tiện kham ưu
Thùy trị bế tức năng thông sướng
Thử ngoại hà tu bất thảo cầu
Tạm dịch:
Khi huyết chu lưu nghỉ phút nào?
Một khi ngưng lại đáng lo sao!
Ai hay nín thở mà không được,
Ngoài cách ấy ra lọ phải cầu.
10. Phép “Vô tâm” được tự nhiên
Dạo tự nhiên là đạo thánh, vô tâm là trong lòng thanh tinh. Người thường giữ được thanh tình thì thông cảm với tự nhiên, lẽ nào đạo thành lại không truyền, đạo tự nhiên lại không hợp sách Thanh tinh kinh đã nói đầy đủ rồi. Những người chân tu thể theo đó mà lành thì muốn dựng ra một cánh tiên cũng dễ dàng thôi.
Thơ rằng:
Hữu ác, hữu vi, vân chỉ yếu
Vô thanh, vô xú, ngữ phương kỳ
Trung thu ngọ dạ thông tiêu tức
Minh nguyệt đương không tạo hóa kỳ (cơ)
Tạm dịch:
Thể vận động luôn, lời rất đúng
Tam thường thanh tỉnh, nói hay sao?
Thiên nhân thông cảm cơ mầu nhiệm,
Đúng giữa đêm thu nguyệt sáng làu
11. Phép phong bế khỏi di mộng tinh.
Lòng dục động thì hỏa bốc lên. Hỏa bốc lên thì tinh thần mỏi mệt, thần mỏi mệt thì tinh hoạt mà hóa thành di mộng tinh. vậy khi đi ngủ, phải dẹp lo nghĩ để an thần, lấy tay trái xoa vào rốn 14 lượt, tay phải cũng làm thế, rồi cả hai tay xoa vào sườn, xoa đi xoa lại 7 lượt, nuốt hơi đưa xuống Đan điền, nắm chặt bàn tay khá lâu rồi sẽ buông, co chân nằm nghiêng, sẽ không di tinh nữa.
Thơ rằng:
Tinh hoạt thần bị dục hỏa nhanh
Mộng trung di thất trị thương sinh
Sai ma hữu quyết quân tự kỷ
Tuyệt dục trừ tham thị bảo kinh
Tạm dịch:
Thần mỏi, tinh di, bốc lửa tình
Trong như tinh xuất hại cho mình
Phép xoa sườn rốn, ta nên nhớ
Trừ bỏ tham dâm đãng tốt lành
Nguồn: Y tông tâm lĩnh
Xem thêm:
- Bài gối đầu giường của chân nhân Tôn Tư Mạo
- Lời dạy sâu sắc về tiết dục và ăn uống
- 63 động tác dưỡng sinh
- Pháp Luân Công là gì, có khỏi bệnh không?