Học thuyết Ngũ Hành – Ngũ hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Đó là khái niệm trừu tượng của người xưa căn cứ vào thuộc tính của Ngũ Hành, dùng quan hệ tương sinh tương khắc của Ngũ hành làm công cụ lý thuyết để giải thích sự liên quan lẫn nhau giữa sự vật và quy luật vận động biến hóa của nó.
Mục Lục
1. Khái niệm
Ngũ hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Đó là khái niệm trừu tượng của người xưa căn cứ vào thuộc tính của Ngũ Hành, dùng quan hệ tương sinh tương khắc của Ngũ hành làm công cụ lý thuyết để giải thích sự liên quan lẫn nhau giữa sự vật và quy luật vận động biến hóa của nó.
Trung y học vận dụng quy luật sinh khắc chế hóa của Ngũ hành đề nói rõ quan hệ tương sinh tương khắc lẫn nhau của nội tạng người ta; dùng phép quy loại ngũ hành đề nói rõ quan hệ lẫn nhau giữa các bộ phận thân thể và giữa con người với hoàn cảnh bên ngoài, nay đem trình bày hai điểm ấy dưới đây.
2. Nội dung của học thuyết ngũ hành
2.1. Ngũ hành là gì?
Người xưa thấy có 5 loại vật chính: kim (kim loại), mộc (gỗ), thuỷ (nước), hoả (lửa), thổ (đất) và đem các hiện tượng trong thiên nhiên và trong cơ thể con người xếp theo 5 loại vật chất trên gọi là ngũ hành. Ngũ hành còn có ý nghĩa nữa là sự vận động, chuyển hoá của các chất trong thiên nhiên và của tạng phủ trong cơ thể.
2.2. Sự quy nạp vào ngũ hành trong thiên nhiên và trong cơ thể con người
Hiện tượng | Mộc | Hoả | Thổ | Kim | Thuỷ |
Vật chất | Gỗ, cây | Lửa | Đất | Kim loại | Nước |
Màu sắc | Xanh | Đỏ | Vàng | Trắng | Đen |
Vị | Chua | Đắng | Ngọt | Cay | Mặn |
Mùa | Xuân | Hạ | Cuối hạ | Thu | Đông |
Phương | Đông | Nam | Trung ương | Tây | Bắc |
Tạng | Can | Tâm | Tỳ | Phế | Thận |
Phủ | Đởm | Tiểu trưởng | Vị | Đại trường | Bàng quang |
Ngũ thể | Cân | Mạch | Thịt | Da lông | Xương, tuỷ |
Ngũ quán | Mắt | Lưỡi | Miệng | Mũi | Tai |
Tình chí | Giận | Mừng | Lo | Buồn | Sợ |
2.3.Các quy luật hoạt động của ngũ hành
a) Sự tương sinh tương khắc của ngũ hành
“Sinh” có hàm ý nghĩa nuôi dưỡng giúp đỡ. Giữa ngũ hành đều có quan hệ nuôi dưỡng lẫn nhau giúp đỡ lẫn nhau, quan hệ đó gọi đơn giản là « Ngũ hành tương sinh). “Thứ tư của Ngũ hành tương sinh là : « Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Trong quan hệ Ngũ hành trong sinh, bất kỳ một hành nào đều có hai mặt: sinh nở và nó sinh, cũng tức là quan hệ mẹ con, sinh ra nó là mẹ, nó sinh ra là con.
Lấy hành Thủy làm ví dụ : sinh ra Thủy là Kim thì Kim là mẹ Thủy, Thủy sinh ra Mộc thì Mộc là con Thủy, suy ra bốn hành khác cũng như thế.
“Khắc” có hàm ý nghĩa chế ước và ngăn trở, giữa Ngũ hành đều có quan hệ chế ước lẫn nhau, ngăn trở lẫn nhau, gọi đơn giản là “Ngũ hành tương khắc”.
Thứ tự của Ngũ hành tương khắc là : Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy. khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc. Trong quan hệ Ngũ hành tương khắc, cũng tức là quan hệ “thắng nỏ và nỏ thắng”, khắc được nó là “thắng nó”, nó khắc được là “nó thắng”. Lấy hành Mộc làm ví dụ: khắc Mộc là Kim thì Kim là thắng mộc, Mộc khắc là Thổ thì Thổ là Mộc thắng. Suy ra bốn hành khác cũng như thế.
– Trong ngũ hành tương sinh đồng thời cũng có tương khắc, trong tương khắc cũng có hàm ý tương sinh, đó là quy luật chung về vận động biến hóa của tự nhiên giới. Nếu chỉ có tương sinh mà không tương khắc thì không thể giữ gìn được thăng bằng phát triển bình thường. Có tương khắc mà không tương sinh thì vạn vật không thể có sự sinh hóa, cho nên tương sinh tương khắc là hai điều kiện không thể thiếu được đề duy trì thăng bằng trọng đối của hết, thảy sự vật, cũng chỉ có ở trên cơ sở tác dụng lẫn nhau, điều hòa lẫn nhau mới có thể thúc đẩy sự vật sinh trưởng biến hóa không ngừng..
Thí dụ: Mộc có thể khắc Thổ, nhưng Thổ có thể sinh Kim, Kim lại có thể khắc Mộc. Dựa trên quan hệ này có thể thấy được Mộc cố nhiên có thể khắc Thổ, nhưng Thổ lại có thể sinh Kim để chế Mộc. Vì thế ở tình trạng này, Thổ tuy bị khắc mà không thấy phát sinh thiên suy, bốn hành Hỏa, Thổ, Kim, Thủy đều là như thế. Cho nên nói sinh khắc của Ngũ hành là trong sinh đồng thời có khắc, trong khắc đồng thời có sinh, giúp đỡ, chế ước lẫn nhau mà duy trì sự thăng bằng. Thiên Lục vi chỉ đại luận sách Tố-vấn nói: “Cang thịnh quá thì tổn hại, khí thừa tiếp đỏ chế ước nó, có chế ước thì có sinh hóa…, nếu để có hại thi Đại loạn”. Sách Trương thị loại kinh nói: “Lẽ tạo hóa không thể không sinh, cũng không thể không chế, không sinh thi không do đâu mà lớn lên, không chế ngự thì cang thịnh quả mà làm hại. Cần phải trong sinh có chế, trong chế có sinh thì mới có thể vận hành liên tục mà tương phản tương thành”.
Cho nên quan hệ của Ngũ hành không ngoài sự sinh hỏa lẫn nhau, chế ước lẫn nhau, đã cần tương sinh lại cần tương khắc, điều hòa cả bên này bên kia mới có thể giữ gìn sự điều hòa nhịp nhàng lẫn nhau, bảo đảm sự sinh hóa không ngừng của sự vật.
Sự chế hòa nói trên là chỉ vào Ngũ hành sinh khắc dưới trạng thái bình thường, nếu giữa Ngũ hành với nhau mà sinh ra thiên thịnh thiên suy, không thể giữ gìn được thăng bằng cần có mà hiện ra trạng thái trái thường thì gọi là “tương thừa tương vũ”.
“Thừa” là có ý thừa thế mà lấn áp, “vũ” là có ý khinh nhờn, theo quy luật Ngũ hành sinh khắc mà xét thì đều là một loại hiện tượng phản thường, ví dụ : xét quy luật chung thì Kim khắc Mộc, nhưng có lúc cũng có thể Mộc lại khắc Kim, v..,
Trong thiên Ngũ vận hành đại luận sách Tố- vấn nói: “ Khi thái quá thì một mặt khắc chế cái kém nó, mặt khắc cũng có thể khinh nhờn cái khắc chế nó; nhưng khi bất cập thì một mặt cái bị nó khắc chế ngược lại khinh nhờn nó, mặt khác cái khắc nó càng khắc mạnh hơn”.
Đó là giải thích Ngũ hành trong tình hình thái quá bất cập đều có thể phá hoại quy luật chế hòa bình thường. Như thủy khi hữu dư liền khắc hại hỏa khí. Đồng thời sẽ trở lại khinh nhờn thổ khí. Như thủy khí bất túc thì thổ khí khắc mạnh hơn và hỏa khí khinh nhờn thủy
Đó là hiện tượng trái thường do thái quá bất cập mà ra.
b) Quy loại ngũ hành
Lý luận Trung y học chẳng những cho rằng các bộ phận trong thân thể người ta là một khối chính thể thống nhất, còn cho rằng thân thể người ta cũng có quan hệ tương ứng với hoàn cảnh tự nhiên ở bên ngoài. Ở đây nói các bộ phận trong thân thể là chỉ vào Ngũ tạng (tâm và tâm bào lạc, can, tỳ, phế, thận), lục phủ (đởm, vị, đại trường, tiểu trường, tam tiêu, bàng quang). Ngũ thể (bì mao, cơ nhục, huyết mạch, cân, cốt tủy). Ngũ quan (tai, mắt, miệng, mũi, lưỡi).
Nói về hoàn cảnh tự nhiên giới bên ngoài, chủ yếu là chỉ vào mùa tiết thay đổi (Xuân, Hạ, Trưởng Hạ, Thu, Đông). Ngũ khí (Phong, Thử, Thấp, Táo, Hàn). Ngũ sắc (xanh, vàng, đỏ, trắng, đen). Ngũ vị (cay, chua, ngọt, đắng, mặn).
Để nói rõ tính chất chỉnh thể và những quan hệ phức tạp của phần trong phần ngoài thân thể thì Trung y lấy Ngũ hành làm trung tâm, căn cứ vào các đặc tính của nó, dùng phương pháp theo loại, theo hình tượng đem tự nhiên giới và sự vật có liên quan đến thân thể, rồi căn cứ vào thuộc tỉnh, hình thái, hiện tượng giống nhau và phân biệt và quy nạp làm năm loại lớn. Mục đích chủ yếu là tiện cho sự hiểu biết, sự liên hệ giữa các sự vật và làm phép tắc suy diễn để xem xét về biến hóa của sự vật.
Quy loại Ngũ Hành của Trung y học đầu tiên quan sát hiện tượng tự nhiên trước, rồi từ hiện tượng tự nhiên liên hệ tương ứng đến ngũ tạng và các bộ phận có liên quan của thân thể người ta cho nên thiên m dương ứng tượng đại luận sách Tố- vấn nói: “Trời có bốn mùa năm hành đề sinh trưởng thu tàng để sinh ra Hàn, Thử, Thấp, Táo, Phong; người có năm tạng hóa năm khí để sinh ra vui mừng, giận hờn, lo nghĩ, buồn rầu, sợ hãi”. Nói về hiện tượng tự nhiên là lấy thời lệnh thay đổi làm khởi điểm, căn cứ các đặc điểm của thời lệnh phối hợp với Ngũ hành, như mùa Xuân thuộc Mộc, Hạ thuộc Hỏa, Trưởng hạ thuộc Thổ, Thu thuộc Kim, Đông thuộc thủy. Do sự biến đổi của thời lệnh, quý tiết sinh ra khí hậu biến hóa về Phong, Thử, Thấp, Táo, Hàn và quá trình phát triển về sinh, trưởng, hóa, thu, tàng của vạn vật. Vì thế chẳng những đem Ngũ hành phối hợp với từ thời lại còn liên hệ đến ngũ khí, quá trình phát triển của sinh vật về phương diện khác có liên quan như ngũ sắc, ngũ vị, v.v… , theo đó mà có thể biết được quan hệ giữa các hiện tượng sở thuộc của mỗi hành cũng có thể nói rõ quan hệ tổng hợp về biến hóa, phát triển, thúc đẩy lẫn nhau của sự vật.
Ngũ hành kết hợp vào nhân thế thì lấy ngũ tạng làm cơ sở, như can thuộc mộc, tâm thuộc hỏa, tỳ thuộc thổ, phế thuộc kim, thận thuộc thủy. Lại do tạng với phủ là quan hệ biểu lý với nhau, do ngũ tạng với ngũ thể, ngũ quan, ngũ chí, ngũ sắc có sự liên hệ mật thiết về công năng sinh lý hoặc về biến hóa bệnh lý, vì thế mà Ngũ hành quy loại lại thông qua Ngũ tạng mà kết hợp đến các mặt lục phủ, lục thể, ngũ thể, ngũ quan, ngũ chí, ngũ sắc thành ra quan hệ một loạt với nhau.
Như thế lấy Ngũ hành làm trung tâm, thông qua sự biến đổi của thời lệnh, kết hợp với sự biến hóa của ngũ khí, quá trình phát triển cho đến ngũ sắc, ngũ vi… và lấy những hiện tượng và thuộc tỉnh, của tự nhiên như thế so sánh với ngũ tạng của nhân thế, theo đó mà liên hệ đến lục phủ, ngũ quan, ngũ chỉ làm thành một hệ thống thể hiện sự quan hệ tương ứng của thân thể người ta với hoàn cảnh tự nhiên giới. Lấy Hành Mộc mà nói : mùa Xuân cây cỏ bắt đầu nảy mầm rồi sinh trưởng, hiện rõ sinh khí bồng bột, biểu hiện ra màu xanh, cho nên dùng hành Mộc để tượng trưng cho mùa xuân. Trong quá trình phát triển, của sinh trưởng, hóa, thu, tàng thuộc về vòng đời, trong khí hậu biến hóa, thuộc về “phong”. Kết hợp với nhân thể thì tính của gan thích điều đạt, thư thái, tượng trưng cho trạng thái mùa Xuân và hành Mộc. Mà can trong ngũ tạng và Đởm trong lục phủ là quan hệ biểu lý với nhau. Can lại khai khiếu ở mắt, Trong ngũ thể chủ về gân, cho nên Can tạng có bệnh thường phần nhiều hiện ra chứng đau mắt hoặc chứng co giật. Can Mộc vượng quá thì phần nhiều hay giận, mà giận quá lại dễ hại đến Can. Cho nên ở trong ngũ chí Can chủ về “giận). Một số bệnh ở Can thường thấy hiện ra sắc xanh.
Đem những hiện tượng tự nhiên và hiện tượng sinh lý, bệnh lý như thế mà liên hệ lại thì có thể đem một loạt sự vật và hiện tượng của hành Mộc, mùa Xuân, đởm, can, mắt, gân, giận, sắc xanh quy thuộc vào một loại của Mộc mà hình thành một hệ thống.
Nói tóm lại, vận dụng tác dụng chế hóa của Ngũ hành sinh khác có thể nói rõ quan hệ sinh và chế lẫn nhau và hiện tượng thăng bằng của trạng thái sinh lý giữa các tạng phủ với nhau, cũng có thể dùng để suy diễn và giải thích bệnh lý biến hóa của tạng phủ.
Tác dụng quy loại của Ngũ hành là đem sự vật có liên quan nhau, chia vào mỗi hành có thể chỉ rõ ra giữa các bộ phận thân thể người ta với hoàn cảnh tự nhiên giới là một chỉnh thể hữu cơ phức tạp. Vì thế học thuyết Ngũ hành trong Trung y đối với việc chẩn đoán và chữa bệnh đều có giá trị nhất định của nó.
3. Ứng dụng trong y học
3.1 Sự sinh khắc của ngũ hành và sự truyền biến tật bệnh của ngũ tạng
Sự phát sinh và phát triển của mọi tật bệnh tuy là rất phức tạp, nhưng cũng có tính quy luật chung của nó, quy luật chung của nó. Quy luật đó ở tính hình chung đều có thể dùng Ngũ hành để giải thích trong lúc lâm sàng chúng ta có nắm vững quy luật truyền biển của tật bệnh mới có thể làm đúng được việc dự phòng và phương châm trị liệu.
|Quy luật truyền biến tật bệnh của Ngũ tạng không ngoài bốn phương diện: « tượng thừa », « phản vũ », « mẫu bệnh cập tử », « tử bệnh phạm mẫu ».
Điều nạn thứ 53 sách Nạn kinh nói: “Bệnh có hư tà, có thực là, có tặc tà, có vi tà, có chính tà, thì lấy gì mà phân biệt ?) – Trả lời: từ đằng sau đến là hư tà, từ đằng trước đến là thực tà, tử hành khắc nó đến là tặc tà, từ hành nó khắc đến là vị là, tự bệnh là chính tà”. Đó là nói rõ quan hệ truyền biến tật bệnh của ngũ tạng, theo đường đến khác nhau của bệnh tà chia làm năm tính chất.
Hư tà từ đằng sau đến tức là bệnh mẹ liên cập đến con, như bệnh can truyền tâm; thực tà từ đằng trước đến, tức là bệnh con phạm mẹ, như bệnh Tỳ truyền Tâm; Tặc tà từ hành khắc nó đến, như bệnh gan truyền tỳ; Vi tà từ hành nó khắc đến như bình Phế truyền Tâm; chính tà là bệnh như bệnh Tâm, vì nguyên nhân của nó phát bệnh ở Tâm, không phải từ tạng khác mà truyền đến.
Đoạn này ghi chép là đã bao quát bốn phương diện trên (ngoài ra còn nên tham khảo các mục chép ở thiên Ngọc cơ chân tạng luận, thiên Khí quyết luận sách Nội kinh Tố- vấn, và điều 53 sách Nạn kinh). Đó là quy luật chung về truyền biến tật bệnh của ngũ tạng.
Để tiện cho việc hiểu biết phương pháp vận dụng chung về học thuyết Ngũ hành trong biện chứng luận Trị, nay đem bệnh biến của ngũ tạng nêu ra mấy điểm nổi rõ dưới đây:
1) Bệnh Tâm – ví dụ Biện chứng luận trị về bệnh tim đập mạnh không
ngủ:
a) Như Tâm hỏa vượng thịnh, Tâm huyết không đủ, vì thế mà hiện ra những chứng đêm ngủ không yên, buồn phiền hồi hộp, đại tiện bí kết, miệng sinh mụn lở. Chứng không ngủ đó thuộc về bệnh tự phát của Tâm kinh, và chưa can thiệp đến tạng khác. Cho nên, phương pháp chữa bệnh chỉ nên tả Tâm hỏa, bồ Tâm huyết, trực tiếp chữa Tâm, bệnh tâm khỏi rồi thì những chứng trạng như thế cũng tự nhiên tiêu mất.
b) Như Tỳ hư mà lụy đến Tâm (con cướp khí mẹ) khi thấy những chứng ăn uống giảm sút, đại tiện lỏng loãng, mỏi mệt không có sức, tim đập mạnh không ngủ, hồi hộp hay quên, nếu chỉ chữa một mình Tâm là không thể giải quyết được vấn đề, cần phải bồi bổ Tỳ Thổ làm chủ, kiêm dưỡng Tâm thần, làm cho Tỳ khí mạnh khỏe, không đến nỗi con lên cướp khi mẹ, thì Tâm. huyết đầy đủ mà mọi bệnh tự khỏi.
c) Bệnh hư lao thường thấy trên lâm sàng, nói chung là do Thận âm bất túc, hư hỏa bốc lên, ngoài sự xuất hiện các chứng nóng từng cơn, mồ hôi trộm, ho, thổ huyết, thường thường có kiêm cả những chứng trạng không ngủ, đó là Thận thủy bất túc, chân âm không đưa lên được, Tâm hỏa một mình cang quá mà gây thành bệnh không ngủ được, chữa bệnh khi đó cần phải tráng thủy chế dương làm chủ. Thận âm được đầy đủ, hư hỏa tự rủi xuống, thì các chứng tự nhiên có thể dần dần khỏi hết.
Căn cứ sự trình bày trên, chứng hồi hộp không ngủ tuy là tật bệnh của Tâm kinh, nhưng những tình hình Tỳ thổ Nhu yếu, Thận thủy bất túc đều có thể làm cho Tâm huyết bất túc hoặc Tâm hỏa một mình càng thịnh quả mà hiện ra chứng hồi hộp không ngủ.
2) Bệnh can – ví dụ Biện chứng luận trị về những chứng đau đầu, hoa mắt, chóng mặt: Trong tật bệnh của Can kinh, thường thấy rất nhiều là chứng trạng đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, nói chung là do Can hỏa bốc lên mà sinh ra. Nhưng cũng có những nguyên nhân vì Thuận thủy bất túc, Phế khỉ không đưa xuống, tỳ khỉ không tiện vận mà gây nên. Nay chia ra trình bày dưới đây:
a) Như khi vì Can dương đưa lên, Mộc hỏa thịnh quá mà có những chứng trạng đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, mặt hồng, mắt đỏ, mạch huyền mà cứng, thì có thể trực tiếp tả thực hóa ở Can kinh. Can dương đã bình rồi thì đau đầu và hoa mắt, chóng mặt cũng tự nhiên tiêu mất. Bởi vì bệnh đó còn ở lang Can chua liên quan đến tạng khác cho nên trong cách chữa là đơn thuần thôi.
b) Ví Thủy suy Mộc vượng, Can phong chuyển lên mà hiện ra những chứng trang đầu quay, mắt tối xầm, Mắt hoa, đầu đau, chóng mặt, phần nhiều thấy ở người bệnh da dẻ tiều tụy, có khí hư nhiệt. Đó tức là bệnh ở trong sách Thạch thất bi lục nói: “ Thận thủy bất túc mà tà hóa xông vào não ). Lại nói: Nếu chỉ chữa phong thì đầu đau càng dữ dội, mắt mờ cùng năng. Phép chữa nên đại bộ phận thủy mà chứng đầu dau mắt mờ tự nhiên bớt. Hiện tượng đó lấy lý luận Ngũ hành mà nói thì là “Thủy không nuôi được Mộc, cách chữa cần tự bổ thận thủy để nuôi dưỡng can Mộc mới có thể theo Trên căn bản mà chữa khỏi bệnh tật. Bổ tức là phép tắc con hư thì bổ mẹ“.
c) Can Mộc phải nhờ vào sụ chế ứớc của Phế kim, người phế khí bất túc, khí không thông, tân dịch không thể phân hóa khắp nơi, phần nhiều là đờm thấp trệ lại, thường có những bệnh tình cho ra đờm rãi, không muốn ăn, đồng thời thường hay có những chứng trạng mắt tối sầm, đầu choáng, lồng ngực đầy tức. Sách Tố vấn huyền cơ nguyên bệnh thức của Lưu hà Gian nói: “Can Mộc vượng tất nhiên Kim suy, Kim suy không thể chế được Mộc mà Mộc lại sinh hỏa”. Cho nên khi lâm sàng chữa bệnh, cần phải bồi Thổ sinh Kim làm chủ, Phế khí thông, can Mộc bình thì những chứng bệnh hoa mắt, chóng mặt cũng có thể tự nhiên khỏi.
Xem bệnh chứng đau đầu, hoa mắt, chóng mặt nổi trên tuy rằng bệnh | thuộc Can, nhưng cũng có thể vì những tật bệnh ở Phế, Thận, Tỳ, Vị mà làm cho can mộc mất điều hòa. Vì thế mà trong việc chữa bệnh có những phương pháp khác nhau như tư thủy hàm Mộc, thanh can tả hỏa, bổ phế chế can v,v..
3) Bệnh Tỳ – Ví dụ Biện chứng luận trị về bệnh Tiết tả: rất nhiều nguyên nhân gây ra bệnh Tiết tả, vì Tỳ hư và thấp, khi xâm hại là thường thấy luôn, ngoài ra như Thận dương bất Túc (hỏa không sinh Thổ), bệnh can phạm đến Tỳ đều có thể gây nên Tiết tả.
a) Không muốn ăn uống, ăn thì muốn đi tả, ngực bụng đầy tức, tay chân không có sức, đó là bệnh Tiết tả do Tỳ dương hư yếu, mất khả năng chuyền vận, nên dùng phương pháp bổ Tỳ để chữa. Tỳ có khả năng kiện vận thì bệnh Tiết tả tự nhiên khỏi. Riêng về bệnh Tiết tả do thấp làm hại mà gây ra, cách chữa thì nên thêm vào kiện tỳ táo thấp. Thiên m dương ứng tượng đại luận sách Tố-vắn nói: Thấp thằng thi tiết tả. Tức là nói về chứng bệnh này. Tóm lại hai bệnh Tiết tả đây tuy không giống hẳn nhau, nhưng bộ vị của bệnh phát đều là sinh ở Tỳ, cho nên phương pháp chữa bệnh cũng đều là một, tức là theo Tỳ mà chữa cả.
b) Như Mệnh môn hỏa suy không sinh được Thổ thì có thể phát sinh bệnh Tiết tả vào lúc tảng sáng (gọi là Ngũ canh tả). Chứng trạng của nó là dạ dày yếu kiệt, ăn ít, không mấy khi đau bụng. Nhân tố chủ yếu gây ra chứng này đúng như sách Y-công tất độc nói: Thận chủ về đại tiểu tiện là gốc của sự đóng kín. Tuy rằng thuộc Thủy mà chân dương cũng có ở trong đó. Thiếu hỏa sinh khí, Hỏa là mẹ thổ nếu một khi hóa suy kém thì lấy gì vận hành Tam tiêu để làm chín nhừ đồ ăn?. Do đó có thể biết chứng Tiết tả này thì những phép thông lợi và kiện vận đều không thể dùng được, chỉ có bổ Hỏa sinh Thổ, làm cho thận dương khôi phục, Tỳ Thổ kiện vận mới có thể khỏi bệnh tả.
c) Như can Mộc thái quá, thường thường tai hại đến Tỳ thổ mà bị đau bụng đi lỏng, đặc điểm chủ yếu của chứng này là bụng đau, nhân đi lỏng mà bớt (trong y án của Trương Quận Thanh nói : “ Mạng môn Hóa suy yếu, ỉa chảy mạnh mà không đau, can bệnh mà Mộc vượng khắc Thổ…, thì phần nhiều đau mà không ỉa chảy mạnh”. Khi chữa bệnh nên chiếu cố cả Can và Tỳ. Nếu đơn thuần bổ Tỳ hoặc ức Can đều không toàn diện, bởi vì bụng đau là can suy nghịch, ỉa chảy là Tỳ khí hư, ức can thì khỏi đau mà tả vẫn còn, bố Tỳ thì khỏi tả mà đau vẫn còn, cho nên cơ chế bệnh biến của chứng này là Mộc lấn Thổ. phương pháp chữa bệnh là bồi Thổ ức Mộc.
Do đó có thể biết cùng một chứng Tiết tả mà cách chữa có khác nhau, có chứng chữa ở tạng của nó, có chứng chữa ở tạng khác, mà nguyên tắc “chữa bệnh tìm gốc” thì là nhất trí.
4) Bệnh Phế – Ví dụ Biện chứng luận trị về ho suyễn: ho và suyễn là chứng trang chủ yếu của bệnh phổi, hai chứng ấy có khi xuất hiện cùng một lúc, có khi xuất hiện đơn thuần. Nhưng về phương diện bệnh lý thì không phải đều do Phế, vì bệnh biến của mạng khác cũng có thể ảnh hưởng đến Phế mà thành chứng ho suyễn. Thiên Khải luận sách Tố-vấn nói: “Ngũ tạng lục phủ đều gây nên bệnh ho”. Lại như thiên kinh mạch biện luận sách Tố-vấn nói: “Bệnh suyễn do Thận gây ra, dâm khí làm hại đến phế… Bệnh suyễn do Can gây ra, dâm khí làm hại đến Tỳ…” – Đó là nói rõ vấn đề ấy. Nay nêu thí dụ dưới đây:
a) Như Hàn tà bên ngoài với âm tà bên trong giằng co ở Phế gây nên họ suyễn, nôn oẹ, tiểu tiện không lợi, hoặc khi có kiêm cả những chứng trạng sợ rét phát nóng, bởi vì bệnh biến chủ yếu là ở Phế, cho nên cần phải dùng phương pháp tán hàn trục ẩm để chữa.
b) Như bệnh hư lao, ho lâu ngày Phế hư, đồng thời Tỳ vị vận hóa hiện ra các chứng ăn kém, đại tiện lỏng thì nên bồi Thổ sinh Kim, lúc đó nếu chỉ dùng phép nhuận Phế hoặc bổ Phế đều có thể làm cho ăn kém và đại tiện lỏng càng nặng. Bởi vì thuốc nhuận Phế thường hay hoạt trường, thuốc bổ Phế thường trở ngại đến vị, chỉ có trước hết kiện Tỳ hòa Vị làm chi công năng của Tỳ vị được kiện toàn, như thế thì ăn uống tự nhiên tăng, ỉa lỏng tự nhiên khỏi. Phế được sự nuôi dưỡng của cốc khí thì Phế khí tự nhiên khôi phục, ho đờm có thể không chữa mà tự nhiên khỏi, cách chữa như thế là “lấy bổ Tỳ thay thế cho bổ Phế” Tỳ thuộc Thổ, Phế thuộc Kim, về quan hệ Ngũ hành thì là phép tắc bổ Thổ sinh Kim.
c) Như Phế thực ở trên, Thận hư ở dưới, khi thấy hiện ra những chứng trạng ho và nhiều đờm, lưng mỏi, mạch Tế, hoặc thấy cả chứng di tinh nên chữa cả Phế và Thận. Nếu chỉ chuyên chữa Phế thực sẽ làm cho Thận khí càng hư, nếu chỉ bổ Thận khí sẽ ảnh hưởng đến Phế làm cho Phế khí càng thực chỉ có chữa cả Phế và Thận mới không đến nỗi chiếu cố mặt này bỏ mất, mặt khác. Phế thuộc Kim, Thân thuộc Thủy, Kim Thủy có thể tương sinh, như thế tức là căn cứ lý luận để sử dụng phép chữa này.
d) Như Thận hư không thể thu nạp Phế khí, đến nỗi sinh ra các chứng ho đờm, thở gấp, tiếng thấp, hơi ngắn, ít đờm, động thì suyễn, hoặc có cả chứng mỏi lưng và đại nhất, thì nên dùng phương pháp bổ Thận nạp khí. Đó là lấy chữa Thận làm căn bản. Thận khí đầy đủ thì có thể nhiếp nạp được Phế khí, bệnh suyễn không chữa mà tự khỏi. Thân thuộc Thủy, Phế thuộc Kim, Kim vốn sinh Thủy, nhưng Thận thủy không đủ cũng có thể ảnh hưởng đến nguồn sinh hóa của Phế Kim làm cho bị đứt quãng ở giữa. Đem quan hệ mẫu tử của Ngũ hành mà nói thì bệnh này là thuộc về loại “con cướp khí mẹ”. Cách chữa, là thuộc về loại “con có thể làm cho mẹ khỏe”.
e) Như Can Mộc cang vượng, Mộc hỏa bốc lên, Phế Kim không hạ xuống được, nên sinh những chứng ho, họng đau, hai bên sườn đau ran thì cần phải thanh Kim chế mộc, can Mộc bình thường Phế khi không bị khắc thì bệnh khỏi dần. Đó là căn cứ quy luật phản vũ mà rút ra cách chữa.
5) Bệnh thận – Ví dụ Biện chứng luận trị về chứng di tinh. Chứng di tinh cho là thuộc về Thần khí bất túc, Sách Nội kinh nói: “ Thận nhận lấy tinh của Ngũ tạng lục phủ mà chứa lại, cho nên khi lâm sàng đối với tất cả bệnh di tinh, cách chữa thường lấy bồ Thận sáp tinh làm chủ. Nhưng nguyên nhân gây nên bệnh di tinh đều không phải đơn giản như thế.
Nhà sách Y học nhập môn nói: “Ngũ tạng đều làm được trách nhiệm của nó thì tinh tàng được mà khỏe mạnh, nếu một tạng nào không giữ vững được trách nhiệm thì tất nhiên hại đến sự chủ tinh của Tâm và Thận. Đó là đã nói rõ ngoài Thận hư còn có thể làm cho cửa tinh không đóng kín được ra thì sự mất điều hòa của các tạng khác, như Tâm hỏa thái quá, can kinh thấp nhiệt, và Tâm thận đều hư, Thủy hỏa không giúp đỡ nhau, đều có thể làm cho sự đóng kín của Thận tạng không bền chặt. Nay phân biệt sơ lược trình bày dưới đây:
a) Những người lúc bình thường trác táng thái quá, chân nguyên của thận tạng bị suy tôn, ngoài những chứng đau lưng, choáng đầu ù tai ra, rat de phát sinh chứng mộng tinh, hoạt tinh, đó là thuộc về thận hư, cửa tinh không đóng kín, cho nên phép chữa cần phải bồ Thân cố tình làm chủ yếu.
b) Nhà nghĩ ngơi nhiều quá không vừa được ý muốn, ban ngày nghĩ ngợi, ban đêm thành mộng, sinh ra di tinh không cầm được, thì nên thanh hóa an Thủy, Tâm hóa được bình thường. Thận thủy tự yên, thì di tinh cũng có thể dần dần khỏi. Nếu dùng phép bổ Thận cố tinh thì chẳng những không có hiệu quả mà tất nhiên càng cố sáp thì lại càng di tinh.
c) Như buồn phiền uất ức, Can hỏa thiên thinh sinh ra di tinh không chỉ, thì nên tạm thời thanh tiết can Hỏa, bởi vì Thận chủ việc bế tàng, Can chủ việc sơ Tiết, Can hỏa vượng thì sợ tiết thái quá sẽ ảnh hưởng đến sự bế tàng của Thận tạng mà gây ra di tỉnh. Phép thanh tiết Can hỏa tuy không phải trực tiếp chữa di tinh, nhưng Can hỏa được bình thường không đến nỗi sợ tiết thải quá thì sự bể tàng của Thận tạng tự nhiên có thể khôi phục được trạng thái bình thường. Đó là ý nghĩa “mẹ thực thì tả con”.
d) Người vốn thể chất hư nhược, thường hay có những chứng lưng mỏi chân mềm không có sức, chiêm bao sợ hãi, là vì Tâm Thận đều hư, về tình trạng này nói chung thường thấy cả chứng ra mồ hôi trộm, di tinh đó là vì Thận thủy hư ở dưới, Tam hỏa không yên, Thủy hỏa không giúp đỡ nhau, cho nền sinh ra chứng đổ mồ hôi trộm và mộng tinh. Cách chữa cần làm cho Thủy Hỏa giúp đỡ lẫn nhau, Tâm Thận giao thông lẫn nhau thì chứng di tinh tự khỏi được.
Nói tóm lại, có thể hiểu được chứng di tinh, tuy là vì mất trách nhiệm phong tàng, cửa tinh không đóng kín được mà gây ra, nhưng Can và Tâm nếu một tạng nào có tình trạng thái quá hoặc bất cập thì sự sinh khắc chế hóa của Ngũ tạng sẽ mất thăng bằng cũng sẽ sinh ra chứng di tinh. Cho nên dùng các phương pháp trên đều có thể chữa khỏi bệnh di tinh.
3.2 Về chẩn đoán
Căn cứ vào những triệu chứng ngũ sắc, ngũ vị, ngũ quan, thể chất để tìm bệnh thuộc các tạng phủ có liên quan
a. Ngũ sắc: sắc vàng bệnh thuộc tỳ, sắc trắng bệnh thuộc phế, sắc xanh bệnh thuộc can, sắc đỏ thuộc bệnh tâm, sắc đen bệnh thuộc thận.
b. Ngũ chí: giận giữ, cáu gắt bệnh ở can; sợ hãi bệnh ở thận; cười nói huyên thuyên bệnh ở tâm; lo nghĩ bệnh ở tỳ; buồn rầu bệnh ở phế.
c. Ngũ khiếu và ngũ thể: bệnh ở cân: chân tay run co quắp thuộc bệnh can; bệnh ở mũi: viêm mũi dị ứng, chảy máu cam…thuộc bệnh phế vị: bệnh ở mạch: mạch hư, nhỏ…thuộc bệnh tâm; bệnh ở xương tuỷ: chậm biết đi, chậm mọc răng…thuộc bệnh thận.
3.3 Về điều trị
a. Đề ra nguyên tắc chữa bệnh: hư thì bổ mẹ, thực thì tả con
Thí dụ: bệnh phế khí hư, phế lao…phải kiện tỳ vì tỳ thổ sinh phế kim (hư thì bổ mẹ)
Bệnh cao huyết áp do can dương thịnh phải chữa vào tâm (an thần) vì can mộc sinh tâm hoả (thực thì tả con)
b. Châm cứu
Trong châm cứu người ta tìm ra loại huyệt ngũ du. Tuỳ kinh âm, kinh dương mỗi loại huyệt tương ứng với một lành, trong một đường kinh quan hệ giữa các huyệt là quan hệ tương sinh, giữa hai kinh âm dương quan hệ giữa các huyệt là quan hệ tương khắc. Tên các huyệt ngũ du được đặt theo ý nghĩa của kinh khi đi trong đường kinh như dòng nước chảy:
– Huyệt hợp: nơi kinh khí đi vào
– Huyệt kinh: nơi kinh khí đi qua
– Huyệt du: nơi kinh khí dồn lại
– Huyệt huỳnh: nơi kinh khí chảy xiết
– Huyệt tỉnh: nơi kinh khí đi ra
3.4 Về thuốc
a. Người ta tìm kiếm và xét tác dụng của thuốc đối với bệnh tật các tạng phủ trên cơ sở liên quan giữa vị, sắc với tạng phủ
– Vị chua, mầu xanh vào can
– Vị đắng, màu đỏ vào tâm
– Vị ngọt, màu vàng vào tỳ
– Vị cay, màu trắng vào phế
– Vị mặn, mầu đen vào thận
b. Người ta còn vận dụng ngũ vị để bào chế làm vị thuốc thay đổi tính năng và tác dụng cho đi vào các tạng phủ theo yêu cầu chữa bệnh: sao với giấm cho vị thuốc vào can; sao với muối cho vị thuốc vào thận; sao với đường cho vị thuốc vào tỳ; sao với gừng cho vị thuốc vào phế…
Nhìn chung học thuyết Ngũ hành được ứng dụng một cách rất rộng rãi trong đời sống, đặc biệt trong y học. Hầu như vạn vật đều bao hàm ngũ hành trong nó.
Nguồn: Tổng hợp
Xem thêm: