Banner
Nếu bạn không phải là một thầy thuốc Đông y, bạn không được tùy ý sử dụng các bài thuốc, vị thuốc trên website yhctvn.com để điều trị bệnh cho bản thân và người khác. Hãy đưa bệnh nhân tới khám và điều trị tại các cơ sở y tế, hoặc cá nhân có chuyên môn.

Bài thuốc Hữu quy hoàn – Xuất xứ Cảnh nhạc toàn thư – Tác dụng Ôn bổ Thận dương, chấn tinh ích tuỷ.

1. Thành phần bài thuốc – Tác dụng chủ trị

Thục địa hoàng 240g Thỏ ty tử 120g
Sơn dược 120g Sơn thù 90g
Đỗ trọng 120g Câu kỷ 120g
Đương quy 90g Lộc giác giao 120g
Phụ tử chế 60g Nhục quế 60g

Cách dùng: Tán bột, trộn mật làm hoàn

Tác dụng : Ôn Thận dương, ích tinh huyết. 

Chủ trị: Trị Thận dương không đủ, mệnh môn hoả suy, người già bệnh lâu xuất hiện chứng lão suy, sợ lạnh, chân tay lạnh, liệt dương, hoạt tinh, lưng gối đau mỏi.

2. Phân tích bài thuốc – Ứng dụng lâm sàng

Phân tích bài thuốc

Thục địa, Sơn thù, Sơn dược, Câu kỷ bổ thận âm; Nhục quế, Phụ tử ôn dưỡng thận dương; Chích thảo bổ trung, ích khí; Đỗ trọng cường tráng, ích tinh.

Gia giảm : 

+ Dương suy khí hư, chủ yếu phải thêm Nhân sâm 8-12g hoặc 24g, tùy người hư hay thực mà thêm nhiều hay ít; vì công năng của Nhân sâm là hễ theo dương dược thì vào dương phận, theo âm dược thì vào âm phận, muốn bổ dương khí của mệnh môn, nếu không thêm Nhân sâm thì không có công hiệu nhanh.

+ Nếu dương hư tinh hoạt, bạch đái, bạch trọc, đại tiện lỏng thì thêm Bổ cốt chỉ 12g sao rượu. Tiêu chảy, hoặc tiêu lỏng không cầm, thêm bắc Ngũ vị tử 12g, Nhục đậu khấu 12g (sao cám cho hết dầu).

+ Ăn uống kém hoặc rối loạn tiêu hoá hoặc nôn mửa nuốt chua thì đều là Tỳ Vị hư hàn, thêm Can khương 12 – 16g (sao).

+ Bụng đau không hết, thêm Ngô thù du 8g (tẩm nước sôi nửa ngày, sao).

+ Thắt lưng đau, gối mỏi, thêm Hồ đào nhục cả vỏ 16g.

+ Âm hư, liệt dương, thêm Ba kích nhục 16g, Nhục thung dung 12g, hoặc thêm dịch hoàn của chó vàng 1-2 đôi, (lấy rượu nấu cho nát nhừ ra giã trộn vào).

+ Đại tiện lỏng có thể bỏ Đương quy, Câu kỷ, thêm Bạch truật, ích trí nhân.

+ Khí hư muốn thoát hoặc hôn mê, hoặc ra mồ hôi, hoặc choáng váng, hoặc hơi thở ngắn, thêm Nhân sâm.

+ Vị khí hư hàn, nôn, ợ chua, có thể thêm Can khương, Ngô thù.

+ Tiểu nhiều dầm dề không dứt, có thể thêm Bể cốt chỉ.

Ứng dụng lâm sàng: Hiện nay Bài thuốc Hữu quy hoàn dùng trị viêm Phế quản mạn, bệnh Tâm Phế, huyết áp cao, thiếu máu, suy thượng thận (Addison), liệt cơ nặng, sa thận, u xơ tiền liệt tuyến, thần kinh tọa, bệnh Durhing, rối loạn mãn kinh, kinh nguyệt ra nhiều, rối loạn sinh lý, không thụ thai.

3. Nghiên cứu lâm sàng bài Hữu quy hoàn

+ Trị sa thận: Dùng bài này bỏ Lộc giác giao, Đương quy, thêm Hoàng kỳ, Thăng ma. Trong đó, sa cả 2 thận nặng 2 ca, 1 ca kèm sa tử cung độ 2, có 1 ca kèm tiểu đường. Kết quả: Sau khi uống 30 thang, lưng gối đỡ đau nhiều, có 1 ca đi kiểm tra siêu âm lại, thấy thận bớt sa nhiều. Còn 1 ca, sau 2 tháng, kiểm tra lại lượng đường trong máu, thấy đã trở lại bình thường (Chiết Giang trung y tạp chí 3, 1955).

+ Trị liệt cơ nặng: Dùng bài này thêm Hoàng kỳ, Đảng sâm, trị 51 ca liệt cơ do thận dương suy yếu (sợ lạnh, tay chân lạnh, đại tiện lỏng, lưng đau, nuốt vào khó khăn, toàn thân mỏi mệt, không có sức). Kết quả: Khỏi 5, đỡ 7, có chuyển biến tốt 32, không khỏi 7 (Thượng Hải trung y dược tạp chỉ 12, 1987).

+ Trị bệnh Durhing (Độ Hán Thị tổng hợp chứng): Sau khi sinh bị bế kinh, lông tóc rụng, vú và tử cung teo, suy giảm tình dục, phù thũng, gầy ốm, váng đầu, sợ lạnh… Kết quả: Khỏi 2, đỡ 1 (‘Thượng Hải trung y dược tạp chí 3, 1981).

+ Dùng bài thuốc Hữu quy hoàn kết hợp với bài ‘Tứ quân tử thang’, trị bệnh nhân bị bệnh Durhing hơn 14 năm, đã uống nội tiết tố tuyến giáp (Thyroxin) nhưng không khỏi. Kết quả: Sau khi uống 12 thang bài thuốc trên, các chứng trạng có triệu chứng giảm, trước đây đang uống 30mg Thyroxin/ngày, nay giảm còn 5mg/ngày. 87 ngày sau, các khỏi bệnh (Liêu Ninh trung y tạp chí 5, 1985).

+ Trị bệnh Addison (A Địch Sâm thị bệnh): Dùng bài này thêm Đan sâm, Điền tam thất, Quy bản, Cam thảo, trị 2 ca. Bệnh nhân da đen sạm, chân răng đen như tro, tay chân lạnh, phù thùng.

Kết quả: Uống thuốc 3 tháng, hết phù, da trở nên tươi nhuận như thường, các chứng đều khỏi. Kiểm tra lại 17-Sterroid trong nước tiểu, thấy trở lại bình thường. Theo dõi hơn 1 năm, không thấy tái phát (Tân trung y 3, ỉ 988).

+ Trị rối loạn tiểu não dạng di truyền: Dùng bài này bỏ Sơn thù, thêm Hà thủ ô, Quy bản, trị người bệnh chân đứng không vững, khó đi lại, lảo đảo, tay không có sức để cầm, váng đầu, tai ù, hay quên, tay chân lạnh- Đã dùng nhiều loại thuốc nhưng không khỏi. Kết quả: Uống 20 thang, tinh thần chuyển biến tốt, đứng và đi được. Uống 50 thang bệnh chuyển biến tốt, có thể tự đi lại được (Thượng Hải trung y dược tạp chí 2, 1984).

+ Trị đau thần kinh toạ: Dùng bài này bỏ Sơn thù, Đương quy, thêm Ma hoàng, Bạch thược, Xuyên Ngưu tất, Cam thảo, gia giảm trị 48 ca. Trong đó, loại nguyên phát có 41 ca, thứ phát 7. Đau như kim đâm, thêm Một được (chế), Nhũ hương (chế). Mất cảm giác, thêm Kê huyết đằng. Đau về ban đêm, thêm Hà thủ ô, Đương quy. Hợp với thấp, bỏ Câu kỷ tử, thêm Thương truật, Mộc thông. Mệt mỏi, tiêu lỏng, thêm Sa nhân, Sơn tra. Tự ra mồ hôi, bỏ Ma hoàng, thêm Hoàng kỳ. Kết quả: Khỏi 32, đỡ 12, không khỏi 4 (Tứ Xuyên trung y 11, 1985).

+ Trị rối loạn tình dục: Dùng bài này thêm ‘Tái dục đơn’, trị 46 ca. Bệnh nhân sắc mặt không tươi, chân tay lạnh, hoa mắt, ù tai, lưng đau, tiểu nhiều… Sau khi uống thuốc đều có kết quả tốt (Thượng Hải trung y dược tạp chí 6, 1990).

+ Trị suy sinh dục: Dùng bài này bỏ Bào phụ tử, Nhục quế, Đương quy, thêm Tử hà xa, Hải cẩu thận, Trần bì, Tiên linh tỳ, trị 11 ca, do rối loạn tinh dịch làm cho suy giảm tình dục. Kết quả: Sau khi uống thuốc 2 tháng, có 2 ca vợ có thai. Có 5 ca, sau khi uống thuốc 3 tháng, vợ đã có thai (Hà Nam trung y 4, 1988).

+ Trị kinh nguyệt ra quá nhiều: Dùng bài này làm chính, trị 9 ca, trong đó có 5 ca tuổi trẻ mà lượng kinh ra quá nhiều, do phá thai làm mạch Xung Nhâm bị tổn thương 2 ca, rối loạn mãn kinh do thận hư 2 ca. Kết quả: Đều có kết quả tốt (Thiểm Tây trung y 4,  1988).

4. Trích dẫn y văn

Bài thuốc Hữu quy hoàn từ bài ‘Phụ quế bát vị hoàn’ biến hoá ra, lấy Tả quy hoàn’ làm cơ sở, bỏ Ngưu tất, cao Quy bản, thêm Phụ tử, Nhục quế, Đương quy, Đỗ trọng. Bài này cùng với ‘Phụ quế bát vị hoàn’ cũng là bài thuốc ôn thận tráng dương, nhưng giữa hai bài thuốc có chỗ khác nhau. Bài trên là bổ dương kèm tả còn bài này bổ mà không tả, lại có Lộc giác giao, Đương quy ích tinh huyết; Câu kỷ tử, Thỏ ty tử, Đỗ trọng ôn dưỡng Can Thận, vì vậy, sức trợ hoả tráng dương của nó mạnh hơn, thích hợp với chứng bệnh dương hư hoả suy tương đối nặng. Người xưa cho rằng ‘Phụ quế bát vị hoàn’ chỉ là ‘ích hoả chi nguyên để tiêu âm hàn’, mà bài này thì ‘phù dương để phối âm’. Còn chỗ khác nhau giữa bài này với bài Tả quy hoàn’ là ‘Tả quy hoàn’ nặng về ích tinh huyết, bài này nặng về ôn tráng thận dương (Thượng Hải phương tễ học).

> Chân dương không đủ, tất có các chứng thần mệt, khí khiếp, tim hồi hộp không yên, hoặc chân tay rã rời, hoặc dương nuy, không có con. Đều nên bổ gấp nguồn của hoả, để bồi bổ khí nguyên dương ở thận bên phải (hữu thận) thì thần khí tự mạnh lên (Thượng Hải phương tễ học).

> Bài này bổ hỏa tận gốc để bồi thận nguyên dương. Bài này cùng với bài Tả quy ẩm’ chủ yếu để tráng thủy, bồi thận nguyên âm (Phương tễ học giảng nghĩa).

Xem thêm:

Bạn có thể quan tâm

Zalo
Liên Hệ