Banner
Nếu bạn không phải là một thầy thuốc Đông y, bạn không được tùy ý sử dụng các bài thuốc, vị thuốc trên website yhctvn.com để điều trị bệnh cho bản thân và người khác. Hãy đưa bệnh nhân tới khám và điều trị tại các cơ sở y tế, hoặc cá nhân có chuyên môn.

Vị thuốc Phụ tử: Vật này phụ cạnh ô đầu mà sinh nên gọi (phụ là phụ vào, tử là Con, Con phụ vào mẹ). – Còn gọi: Hắc phụ tử (Cương mục). Thiên hùng loại nhọn và dài.

– Tên khoa học: Aconitum fischri reich. Là củ kệ sinh bên cạnh rễ củ ô đầu. Thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae).

1. Bộ phận làm thuốc, thu hái

– Hình thái – Bộ phận dùng – Thu hái

Cây ô đầu là loài cỏ sống lâu năm, cao chừng 0,6 -1m. Tên cây một số sách có chép khác nhau: Theo từ điển Từ Hải Trung Quốc: Phụ tử: Aconitum sinence.

– Theo sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” (Viết tắt: NCTVVTVN). Trước đây nhiều tác giả xác định là: Aconitum sinence paxt. Thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae). Gần đây Trung được chí tập 1 Bắc Kinh 1961 xác định là: Aconitum carrmichaeli Debx.

Rễ phát triển thành củ có củ mẹ củ con, như cây âu ô đầu, củ hái ở những cây trồng có thể tới 5cm đường kính. .

Lá mọc so le, phiến lá rộng 5 – 12cm, xẻ thành 3 thùy, 2 thùy 2 bên lại xẻ làm 2, thùy giữa lại xe thành 3 thùy Con nữa. Mép các thùy đều có răng cửa thô, to. Hoa tự dài 10 – 20cm, hoa màu xanh tím. Quả dài 2mm. Hoa nở vào tháng 6 – 7 quả thu hoạch vào tháng 7 – 8.

Ô đầu là rễ củ mẹ của cây ô đầu, rất độc, đào về rửa sạch phơi hay sấy khô. Phụ tử là rễ củ con của cây ô đầu, đem về chế biến thành diêm phụ, hắc phụ, bạch phụ, bạch phụ củ, bạch phụ phiến, mới đem dùng ít độc hơn.

2. Bào chế Phụ tử

Sau khi bào chế gồm các loại: Diêm phụ tử, Hắc phụ tử, Bạch phụ tử.

Diêm phụ tử:

  • Rễ củ con loại to, rửa sạch bỏ vào vại, thêm magnesi clorid, muối ăn và nước. Theo hàm tỷ lệ cứ 100 kg Phụ tử dùng 40 kg magnesi clorid, 30 kg muối ăn, và 60 lít nước (đảm bảo lượng nước xâm xấp mặt củ. Ngâm 10 ngày, lấy ra phơi khô rồi lại cho vào ngâm tiếp.
  • Chú ý: Thỉnh thoảng thêm magnesi clorid; muối ăn; nước để đảm bảo nồng độ ban đầu.
  • Sau 10 ngày vớt ra phơi nắng để muối thấm tới giữa củ. Mặt ngoài thấy kết tinh trắng là được. Thái lát mỏng 5 mm, rửa nước đến hết vị cay tê, đem phơi hoặc sấy khô (độc bảng B).

Đạm phụ tử:

  • Lấy Diêm phụ tử ngâm nước cho hết muối, mỗi ngày thay 2- 3 lần. Cho vào nồi cùng Cam thảo, Đậu đen nấu với nước cho thấm. Đến khi nếm mà lưỡi không thấy cay, tê thì được.
  • Sau đó vớt ra, bỏ Cam thảo, Đậu đen. Phụ tử cạo bỏ vỏ, chẻ làm 2 miếng, cho vào nồi, thêm nước, nấu khoảng 2 giờ. Khi Phụ tử chín thì lấy ra, để cho ráo, lại ủ cho mềm rồi cắt miếng phơi khô là được.

Hắc phụ tử:

  • Rễ củ con loại trung bình rửa sạch, cho vào vại, thêm magnesi clorid, nước ngâm với tỷ lệ 100 kg Phụ tử; 40 kg magnesi clorid; 20 lít nước, trong một vài ngày.
  • Sau đó đun sôi 2-3 phút, lấy ra rửa sạch, để cả vỏ thái lát dày khoảng 5 mm. Lại ngâm trong nước magnesi clorid.
  • Cuối cùng thêm đường đỏ và dầu hạt cải để tẩm đến khi có màu nước chè đặc. Sau đó rửa nước đến hết vị cay, phơi hoặc sấy khô.

    vị thuốc hắc phụ tử

    Vị thuốc hắc phụ tử

Bạch phụ tử:

  • Rễ củ con loại nhỏ rửa sạch cho vào vại, ngâm trong nước magnesi clorid vài ngày tỷ lệ như Hắc phụ tử.
  • Sau đó đun tới chín đến giữa củ, lấy ra bóc vỏ bỏ. Thái lát mỏng dày khoảng 3 mm. Rửa hết vị cay tê, hấp chín, phơi khô, xông hơi diêm sinh, rồi phơi đến khô.
Vị thuốc bạch phụ tử

Vị thuốc bạch phụ tử

Cách chế biến của cụ Hy Lãn

Từ xưa có nhiều cách chế biến ô đầu, phụ tử khác nhau. Tôi thường dùng chế biến như của Chu Chấn Hành chế như sau: Phàm dùng ô phụ và thiên hùng đều dùng nước tiểu trẻ con + chút muối ngâm khoảng 7 ngày đến 10 ngày để bớt chất độc và giúp sức dẫn đi xuống, sau đó đem rửa sạch. Rồi lại cho vào nước vo gạo đặc ngâm từ 7 – 10 ngày, thỉnh thoảng kiểm tra bằng cách nhấm ở đầu nhọn của củ, nếu thấy tê cay nhiều thì còn phải ngâm, nhưng không nhất thiết phải mỗi đợt 10 ngày. Sau đó khi tê cay lưỡi không còn hoặc tê ít không đáng kể thì thái ra đời cổ dùng dao tre, tôi vẫn dùng dao như bình thường tẩm nước muối sao, hoặc mật sao rồi dùng. Cách chế biến hiện nay vẫn chưa thống nhất, muốn xem chế biến bạch phụ, diêm phụ, hắc phụ xem trang 871 Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam.

Bảo quản

  • Để trong lọ kín, tránh ẩm, để nơi khô mát.
  • Phụ tử là thuốc độc bảng A.
  • Diêm phụ; Hắc phụ; Bạch phụ là thuốc độc bảng B.

3. Tác dụng dược lý vị Phụ tử

Kháng viêm: thuốc sắc Phụ tử có tác dụng chống viêm.

Tác dụng nội tiết: làm giảm lượng Vitamin C ở vỏ tuyến thượng thận chuột đồng hay tăng tiết vỏ tuyến thượng thận và tăng chuyển hóa đường, mỡ và protein. Nhưng trên một số thí nghiệm khác thì tác dụng này chưa rõ (Chinese Herbal Medicin).

Tác dụng lên hệ thần kinh trung ương: Acotinine với liều 0,1 – 0,2 mg/kg có tác dụng làm giảm phản xạ có điều kiện và không điều kiện và làm giảm nồng độ ammoniac ở não (Trung Dược Học).

Tăng miễn dịch cơ thể (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

Tác dụng lên hệ tuần hoàn

  • Tăng huyết áp ở động vật được gây mê với liều lượng lớn
  • Tăng lực co bóp cơ tim, làm cường tim , tăng lưu lượng máu của động mạch đùi và làm giảm lực cản của động mạch, làm tăng nhẹ lưu lượng máu của động mạch vành và lực cản (Trung Dược Học).

4. Vị thuốc Phụ tử theo Đông y

1) Tính chất: Cay, ấm, có độc lớn. 

2) Công dụng:

Bổ chân hóa của mệnh môn, đuổi tà phong hàn thấp, công hiệu có bốn:

a) Làm thuốc mạnh tim hồi tỉnh:

Dùng cho các bệnh hư thoát, như mạch đập trầm (chìm) nhược (yếu) nhỏ (tế) mạn (chậm) hoặc sắp bị định đốn, mồ hôi ra lạnh không ngừng, thể ôn giáng thấp, chân tay nằm co ro, cùng với người mất máu nhiều, nôn dữ, tả mạnh, biểu hiện trạng thái hư thoát, có thể phải dùng gấp.

b) Làm thuốc hưng phấn kích thích:

Để hưng phấn thần kinh, cổ vũ tế bào, tăng tiến thể ôn, gọi dậy sức cơ năng các loại của toàn thân. Trị thống phong, đau thấp khớp, đau thần kinh, cùng với bệnh huyết đi trở ngại, các loại Cơ năng suy yếu, không chứng nào không thu công.

c) Dùng chữa tiêu hóa không tốt mãn tính: 

Vụ tràng (dạ dày, ruột) co thắt đau, tiết tả không ngừng, hoặc đại tiện ra nguyên thức ăn không tiêu hóa, cùng thuốc khác cùng cùng thu công hiệu trấn đau ngừng lại.

d) Có tác dụng lợi tiểu, cho ra mồ hôi:  Dùng chữa bệnh thủy thũng phù nước) của tạng tâm tạng thận có công hiệu.

3) Chủ trị:

Do phong hàn mà ho ngược trị tà lạnh tà thấp, bong gân sái chân tay (oải), què ngã (bị co rút, đầu gối đau không thể đi bộ, phá tích tụ cục u cứng rắn, máu tụ thành cục, vết đâm chém tụ thành cục (Bản kinh) trị eo lưng cột sống bị phong hàn, chân sưng lạnh yếu, tâm bụng đau lạnh, miệng nôn trôn tháo, chuyển gân, đi lỵ ra chất đỏ trắng, ấm trung tiêu mạnh âm, bên xương cốt cơ bắp, lại ra thai, làm đầu mọi loại thuốc (Biệt lục).

5. Trương Trọng Cảnh phát minh

Một vị phụ tử qua Trường Trọng Cảnh thực nghiệm cho rằng: Chủ yếu trục thủy. Cho nên có thể trị sợ lạnh, mình máy và tứ chi cùng khớp đốt đau đớn, hoặc trầm trọng nặng nề, hoặc bất nhân (cơ phu tê không biết đau ngứa) hoặc quyết lạnh, mà thêm chữa:

Bụng đau, mất tinh, hạ lỵ, nay xét chứng như sau:

  1. Bài đại ô đầu tiên chúng rằng: Quanh rốn đau, nếu phát thì tự ra mồ hôi, chân tay quyết lạnh.
  1. Chứng của Thang ô đầu rằng: Các khớp đốt nhức đầu, không thể co ruỗi.
  1. Chứng của Thang ô đầu quế chi rằng: Trong bụng đau, giá lạnh, chân tay bất nhân (trên đầy 3 phương ô đầu đều dùng 5 củ, mà là thuốc chủ yếu vậy).
  1. Thang quế chi phụ tử chứng rằng: Mình mẩy đau đớn không thể tự quay trở.
  1. Chứng của Thang quế chi phụ tử bỏ quế thêm truật rằng: Chứng như trước nhưng tiểu tiện không lợi.
  2.  Chứng của Thang đại hoàng phụ tử rằng: Dưới sườn lệch đau.
  1. Chứng của Thiên hùng tán (thiếu): Trên đây 4 phương phụ tử đều 3 củ.
  1. chứng của Thang quế chi cam thảo phụ tử rằng: Đau phiền muộn không co duỗi được.
  1. Chứng của Thang phụ tử rằng:  Lưng sợ lạnh, lại nói rằng: Mình máy đau, chân tay lạnh, khớp đốt đau.

Trên đầy 2 phương phụ tử đều 2 củ.

  1. Chứng của Thang tứ nghịch rằng: Đi đại tiện ra cơm và nước trong không ngừng, mình đau đớn, lại nói rằng: Chân tay quyết lạnh.
  1. Chứng của thang Chấn Vũ rằng: Bụng đau. Lại nói rằng: Tứ chi trầm trọng, đau đớn tự đi ly. ,
  1. Chứng của Thang quế chi gia phụ tử rằng: Tứ chi hơi căng cấp khó co ruỗi.
  1. Chứng của Thang quế chi bỏ thược dược thêm phụ tử rằng: Sợ lạnh.
  2. Chứng của Thang phụ tử ngạnh mễ rằng: Đau như cắt.
  3. Chứng của Thang ma hoàng phụ tử cam thảo rằng: Không đủ vậy. (Nói ở bộ ma hoàng).
  1. Chứng của Thang ma hoàng phụ tử tế tân không đủ vậy (nói ở bộ tế tân).
  2. Chứng của thang phụ tử tả tâm rằng: Sợ lạnh.
  3. Chứng của thang quế khương tác thảo hoàng tân phụ rằng: Không đủ vậy. (Nói ở bộ truật).

Trên đây 9 phương phụ tử đều 1 củ. Trải xem các phương trên, chứng thứ nhất là bệnh thủy vậy.

– Điều nói về Thang quế chi phụ tử bỏ quế thêm truật rằng: Một lần uống thấy mình tý tệ hơn nửa ngày, lần 2 lần 3 uống đều hết, người uống có dạng như công bốc ra, chớ lạ, đó là truật phụ cùng chạy ra phần trong da để đuổi thủy khí chưa trừ hết vậy.

– Điều nói về thang ô đầu quế chi nói rằng: Mới uống 2/10 lít thì không biết bèn uống 3/10 lít lại không biết, lại thêm đến 5/10 lít thì biết, như dạng say, được nôn là trúng bệnh,

Hai bài trên nói phụ tử đuối nước có trạng thái mờ ảo xây xẩm vậy. Phàm trúng bệnh khi dùng phụ tử thì đều có dạng như vậy, người bệnh nặng còn mạch tuyệt sắc biến đối, như dạng người chết, phút chốc nôn ra nước vài lít mà bệnh trừ được 1 vậy. Tôi đã từng dùng bài “ đầu 1 tiên” mà biết, phụ tử đuổi trừ nước, rõ lắm vậy.

* Lượng dùng: 1 – 5 gam.

* Kiêng kỵ:

Phàm không phải hư hàn thì cấm dùng, ghét ngô công, sợ phòng phong, đậu đen, cam thảo, nhân sâm, hoàng kỳ, đậu xanh, nước tiểu trẻ, tê giác, kỵ nước sắt. Địa đởm làm sứ. 

Cây phụ tử

Cây phụ tử

6. Từng thời đại đã dùng để chữa

1) Cuối đời Lê. Lê Hữu Trác “Dược phẩm vàng yêu thương” có bàn về phụ tử rằng:

Sống phụ bên cạnh ô đầu là phu tử, ngay thẳng tròn to, nặng trên 3g là sức đủ là tốt – Ô đầu, trắc tử, thiên hùng, ô trác cùng một gốc mà gọi khác tên.

Khí vị rất cay rất nóng, hơi kiêm ngọt đắng, có độc lớn, khí hậu vị bạc, âm ở trong dương, xuống nhiều lên ít, trong nối mà chìm, không đầu là không đến. Vào kinh thủ quyết âm mệnh môn thủ thiếu dương tam tiêu, kiêm vào kinh túc thái âm thiếu âm. Sợ phòng phong cam thảo nhân sâm hoàng kỳ, đồng tiện, tê giác, đậu đen.

Chủ dùng:

Chủ trị 5 tạng trầm hàn, tứ chi quyết nghịch, tâm bụng lạnh đau, tích tụ trưng hà, hàn thấp liệt què, ho hắng phong hàn, thoát dương tả dữ, tả lâu không ngừng, ế cách nôn oẹ, mụn nhọt không vít miệng, đầu bị tà phong, đờm sốt rét, trẻ con mạn kinh đầu sởi lở loét trắng xám không mọc được, vị lạnh giun động, phiền vỵ nôn ngược, mạnh dương ích khí, bền xương mạnh gân, thương hàn chứng âm, âm độc[mfn]Âm độc là: Chứng này do huần âm không dương, bên ngoài cả phải khí lạnh nghiêm ngặt, xâm nhập cơ da xương tủy, dẫn đến khí huyết nông thể lưu hành, ngưng trệ kinh lạc , đau đớn khó chịu, đầu tiên không đỏ nông sưng không nóng, tiếp đến gây ra sưng dần hồng lên, thối rữa nát không ngừng nước hôi chảy ra dầm dề, cuối cùng không trị được[/mfn], trúng hàn, khí quyết đờm quyết[mfn]Đờm quyết là quyết lạnh do đờm, có chứng. a) Đờm lạnh làm mê hiếu tìm, đường toại đạo không thông lành, tứ chi quyết lạnh, đột ngột ngã nhào, bất tỉnh việc người, khí suyễn Thạnh huyền, nên uống thang đạo đờm, gia vị nhị trấn, hạc đỉnh đan… b) Đột ngột không biết ai, nhưng chưa ngã hào, trong hầu đờm rít như kéo cưa, trước dùng “Qua đế tán” cho nôn hết ra đờm, sau dùng “thanh khí hóa đờm, Đạo đờm thang” hoặc dùng phục linh, cam thảo, chỉ xác, bán hạ, cát cánh, trần bì, nam tinh, gừng, qua lâu sắc uống.[/mfn], phiền táo mê muội không tính, thượng phong bán thân bất toại, mọi bệnh tý phong tý lạnh, sưng chướng hoắc loạn, chuyển gân, đi lỵ trắng đỏ, thận quyết đầu đau, dương hư chứng huyết.

Các loại chứng trầm hàn đều không thể thiếu, mạnh nguyên dương nguyên hỏa, tàn âm thấp âm hàn, độc lạnh của 3 kinh âm không phải phụ tử không hồi phục, ba kinh dương quyết nghịch bỏ nó không được.

– Hợp dùng:

Tinh bẩm sinh đã hùng tráng tất trọng dùng sâm truật để lái đưa, nếu không thì gây họa không nhỏ, không có can khương thì không nóng, dùng thục địa làm thần thì chỉ có công hướng âm chế hỏa, được cam thảo thì tính chậm đi, được nhục quế thì bổ mệnh môn, được bạch truật thì trị tỳ hàn thấp, được can khương thì bổ trung hồi dương. Làm đầu 100 loại thuốc, thông hành mọi kinh, dùng để dẫn thì rất nhanh, dẫn thuốc bổ khí thì truy tìm được cái nguyên dương bị tan mất, dẫn thuốc bổ huyết thì giúp được chân âm không đủ, dẫn thuốc phát tán để đuổi cái tà phong ở phần biểu, an thuốc ôn ấm để trừ cái hàn thấp trong phần lý, đó đều thu công theo cái dẫn dắt khác nhau.

Lại nói: Chín thì bổ mạnh, cho nên phụ tử chín phối với ma hoàng trong phát có bổ, để sống thì phát tan, cho nên sinh phụ phối can khương thì trong bổ có tan. Đó là sống hay chín dùng có thu công khác vậy.

– Cấm dùng:

Âm hư nóng bên trong cùng với bên trong thực nhiệt mà bên ngoài giả hàn không thể dùng làm. Đàn bà có mang kiêng uống, trụy thai rất chóng.

2) Đời Kim. Trương Nguyên Tố chân châu nang bàn về phụ tử rằng:

Âm áp tỳ vị, trừ tỳ thấp thận hàn, bổ hạ tiêu dương hư.

3) Đời Nguyên. Lý Đông Viên dụng dược pháp tượng bàn phụ tử rằng:

Trừ tạng phủ bị trầm hàn, trị 3 kinh dương chân tay quyết lạnh, thấp ngấm dầm bụng đau, vị lạnh giun quấy, chữa kinh bế, bổ hư, tan ủng tắc..

7. Phối hợp ứng dụng

1) Trị thương hàn âm thịnh cách dương, người này tất táo nhiệt mà không uống nước, mạch trầm, chân tay quyết nghịch, là chứng này vậy. “Tích lịch tán”.

Dùng đại phụ tử 1 củ, sao tồn tính nghiền nhỏ, nước một điều uống, bắt buộc tan khí lạnh sau đó khí nóng đi lên mà mồ hôi ra bèn khỏi. (Tôn triệu khẩu quyết phương)

2) Trị bệnh nhiệt, nôn, đại tiểu tiện đi ly mình lạnh, mạch vi phát táo không ngừng.

Phụ tử bào 1 củ, bỏ vỏ rốn, chia làm 8 miếng, cho vào 3,3 gam muối, nước 1 lít sắc còn 1/2 lít, uống ấm, lập tức công hiệu. (Kinh nghiệm lương phương)

3) Trị âm độc thương hàn[mfn]Âm độc thương hàn là:  Âm độc gây bệnh mặt mắt xanh, mình đau như bị đòn đánh, họng hầu đau, 5 ngày còn chữa được, 7 ngày không chữa được, dùng Thang thăng ma miết giáp bỏ hùng hoàng thục tiêu làm chủ mà chữa[/mfn] sau khi nhập phòng bị lạnh, bụng dưới 2 bên rốn đau đớn, đầu đau, eo lưng nặng, chân tay quyết nghịch, mạch đập trầm tế, hoặc dấy lên chứng ợ ngược, đồng thời nên dùng:

Thoái âm tiễn” dùng xuyên ô đầu, can khương lượng bằng nhau, cắt ra sao, để nguội rồi tán nhỏ, mỗi lần uống 3,3 gam, muối một nhúm, Sắc lấy 1 chén nước đun có nửa chén, uống ấm, ra được mồ hôi là giải. (Tôn triệu khẩu quyết phương)

4) “Ngọc nữ tán” trị âm độc tâm bụng đau, chứng hậu ác, quyết nghịch chân tay dùng:

Xuyên ô đầu (bỏ vỏ rốn) nước lạnh ngâm 7 ngày, cắt ra phơi, gói giấy cất, gặp khi có bệnh, lấy bột đó 3,3 gam, cho vào muối 2,5g nước 1 bát sắc còn 8/10 bát, chia ra uống, âm độc ra như máu lợn, lại uống lần nữa. (Bản sự phương). 

5) Lại “Hồi dương tán”, trị âm độc thương hàn, mặt xanh tứ chi quyết nghịch, bụng đau mình lạnh, các loại khí lạnh, dùng đại phụ tử 3 củ nướng làm vỡ ra, bỏ vỏ rốn nghiền nhỏ, mỗi lần uống 10g, nước gừng nửa chén, rượu lạnh nửa chén, điều uống giờ lâu, thấy dưới rốn như lửa ấm làm mức. (Tế sinh phương)

6) Lại trị âm độc thương hàn phiền táo mê buồn bực, bệnh cấp thì dùng 1 củ phụ tử nặng nửa lạng (16 gam) đập sống làm 4 mảnh, gừng tươi một củ to, chia làm 3 mảnh, gạo nếp 1 nắm, nước 1 lít, sắc còn 6/10 lít, uống ấm, nằm ấm, hoặc mồ hôi ra, hoặc không ra, đợi tâm yên ổn thì lấy nước giải tán mà giải đi, không được cùng nước lạnh nếu khát càng sắc bã uống. Đã dùng có nhiều công hiệu vậy. (Tục truyền tín phương)

7) Trị trúng phong đờm quyết mờ mịt không biết ai, miệng mắt méo lệch, kiêm cơ thể hư yếu mắc bệnh sốt rét lạnh nhiều hơn nóng dùng “Ngũ sinh ẩm”

Sinh xuyên ô đầu; Sinh phụ tử đồng thời bỏ vỏ rốn đều 1/2 lạng (16 gam); Sinh nam tinh 1 lạng (32 gam); Sinh mộc hương hai đ.cân rưỡi (8 gam) mỗi lần uống 5 đồng cân (16 gam); Gừng tươi 11 lát, nước 2 bát sắc còn 1 bát, uốn ấm. (Hòa tê cục phương)

8) Trị trúng phong thiên phế (bị bại một bên) “Thang khương hoạt”.

Dùng sinh phụ tử 1 củ bỏ vỏ rốn, khương hoạt, ô dược đều 32 gam, mỗi lần uống 13 gam, gừng tươi 3 lát, nước 1 bát sắc lấy 7/10 bát uống. (Vương thị giản dị phương).

9) Trị bệnh phong hàn thấp tý, ngứa tê, không biết tê ngứa, hoặc chân tay tê bại dùng:

Bột ô đầu tươi, mỗi lần dùng gạo trắng thơm nấu cháo 1 bát, cho vào 13, bột ô đầu tươi đun lửa từ từ cho được, cho 1 thìa nước gừng, 3 thìa to mật, lúc bụng đói ăn. Hoặc cho vào 6,6g bột ý dĩ. Tả truyện nói: Phong dâm mạt tật, mạt là tứ mạt vậy (phong ngấm dầm vào tứ chi gây bệnh), tỳ chủ tứ chi, phong ngấm dầm trú ở gan thì lấn tỳ mà gây bệnh tứ chi vậy. Phương này rất có sức, tôi thường dùng chữa người rất nghiệm. (Bản sự phương).

10) Trị thân thể hư yếu có phong, bên ngoài lại mắc hàn thấp, mình như ở trong không. Dùng phụ tử sống, thiên nam tinh sống đều 6,6 gam, gừng tươi 10 lát, nước 1 bát rưỡi, lửa nhỏ sắc uống. (Bản sự phương)

11) Trị sau đẻ trúng phong, mình như uốn ván, miệng câm không nói, dùng xuyên ô đầu 5 lạng (165g) đập dập. Hắc đại đậu nửa lít cùng sao đến đen một nửa, dùng rượu 3 lít đổ vào trong nồi, kíp đảo khỏi cháy, lấy lụa hoặc vải lọc lấy rượu, hơi ấm uống một chén nhỏ, cho ra mồ hôi, nếu miệng không mở cạy mồm ra rót thuốc rượu vào, chưa công hiệu thì thêm phân gà đen 1/10 lít sao cho vào trong rượu uống, lấy khỏi làm mức. (Tiểu phẩm phương)

12) Trị mọi loại phong, huyết phong[mfn]Huyết phong: Chứng này bắt đầu sưng đỏ, hình như bị đánh, khắp nơi mọc mụn bọng máu, tà lấn vào phần dương thì sớm nặng tối nhẹ, tà lấn vào âm thì tối nặng sớm nhẹ, hoặc kiêm nôn mửa khạc ra máu, máu cam, đái ta ra máu… hoặc kiêm oẹ ạ, nuốt chua, mừng giận bất thường hoặc sinh đỏ từng vùng, tê bì, không biết đau ngứa, chỗ đau thủng nứt chảy nước không ngừng, mặt mắt phù sưng đầu đau não nứt, chân tay Có rút tê tắc đều do tà phong thấp tích lâu hóa nhiệt mà phong lại hỗ trợ thấp nhiệt, thấp nhiệt giúp cái sai của phong, cho nên Công xung tràn lan các nơi. Kíp dùng “Sơ phong tán” hay “Chính dương tán” mà chữa[/mfn].

“Ô kinh hoàn” trị mọi loại phong, nói năng ngọng nghịu, khắp mình ngứa đau cùng đàn bà huyết phong đau đầu, mắt xây sâm quay cuồng, tràng phong tạng độc[mfn]Tràng phong, tạng độc: Tràng phong là do phong theo kinh mạch mà vào trú ở tràng vị, hoặc bên ngoài ngấm dầm tà phong mộc, lấn vào trong tràng vị(có thuyết nói do khoảng tràng Vị thấp nhiệt uất tích gây ra, luôn la ra máu (phần nhiều ra trước phân) tùy cảm tùy phát, máu trong mà sắc tươi, khi đại tiện bắn tứ tung nội kinh bảo phong lâu ngày vào trong thì sinh ra tràng phong ăn vào là đi tả. – Tạng độc là: Tạng chứa nhiệt độc lâu ngày sắc màu phần nhiều đục mà tối, tất ở sau phân, chứng này phải chia trong ngoài âm dương mà chữa. (Xem cách chữa trang 4605 TQYHĐTĐ). máu không ngừng thì uống, càng công hiệu, có người đau phong co rút, má cằm cố không co lại, uống 6 – 7 lần bèn khỏi. Dùng: Xuyên ô đầu nướng bỏ vỏ rốn 1 lang (32g), Bông kinh giới 2 lạng nghiền nhỏ, dấm bột hoàn viên bằng hạt ngô, rượu ấm hoặc nước sôi điều uống 20 viên. (Hòa tế cục phương)[/mfn] ra.

13) Trị mọi loại phong bệnh động kinh dùng xuyên ô đầu tươi bỏ vỏ 8 gam, ngũ linh chi 16 gam nghiền nhỏ, máu tim lợn hòa viên bằng hạt ngô, mỗi lần nước gừng điều uống 1 viên. .

14) Trị trẻ con mạn kinh co quắp, rãi ủng tắc quyết nghịch dùng:

Xuyên ô đầu tươi bỏ vỏ rốn 1 lạng (32g), bọ cạp 10 con bỏ đuôi, chia 3 lần uống. Nước 1 chén gừng 7 lát sắc uống. (Thang thị anh hài bảo giám phương) .

15) Trị trẻ con gái mềm đó là can thận hư tà phong xâm nhập dùng phụ tử bỏ vỏ rốn, thiên nam tinh đều 7 gam nghiền nhỏ, nước gừng điều dán đắp trong xương thiên trụ, uống “tả thanh hoàn” (đương quy, long đởm thảo, xuyên khung, chi tử, đại hoàng, khương hoạt, phòng phong, lượng bằng nhau). (Toàn ấu tâm giác phương)

16) Trị trẻ con thóp lõm dùng ô đầu phụ tử đều dùng sống, bỏ vỏ rốn 7 gam, hùng hoàng 2,6 gam nghiền nhỏ, trộn rễ hành già nặn bánh đắp chỗ lõm. (Toàn ấu tâm giám phương).

17) Trị ma tý (tế tắc, thấp khớp). nhức đầu, “Tiên đào hoàn” trị chân tay tê tắc cùng liệt trái liệt phải nhức đau, eo lưng đầu gối tắc đau, hoặc đánh đập thương tổn, lặn hòn dái, đau không nhịn nổi, dùng xuyên ô tươi không bỏ vỏ, ngũ linh chi đều 4lạng (130 gam) uy linh tiên 5 lạng (165 gam) rửa sấy, nghiền nhỏ, rượu hồ viên bằng hạt ngô, mỗi lần uống 7 viên đến 10 viên, nước muối điều uống, kỹ nước trà. Thuốc này thường uống rất công hiệu như thần. . (Phổ tế phương)

18) Trị phong tụ (thấp khớp chạy) tứ chi đau, doanh vệ không lưu hành dùng xuyên ô đầu nướng bỏ vỏ, lấy đại đậu cùng sao đến mồ hôi ra làm mức, ba đậu sấy khô, toàn yết 1,6 gam sấy nghiền nhỏ, dấm nhào viên bằng hạt đậu xanh, mỗi lần rượu ấm điều uống 7 viên, ngày 1 lần. (Thánh huệ phương)

19) Trị eo lưng bàn chân lạnh tắc đau đớn có phong dùng xuyên ô đầu 3 củ để sống bỏ vỏ rốn tán nhỏ, hòa giấm đắp nơi đau đắp qua vải mỏng hoặc lụa, phút chốc đau ngừng. (Thánh huệ phương)

20) Trị cước khí đùi cẳng chân sưng, lâu không khỏi. Hắc phụ tử 1 củ để sống bỏ vỏ rốn tán nhỏ, trộn nước gừng tươi hòa như cao đắp, thuốc khô lại đồ, lấy tan sưng làm mức. (Giản yếu tế chúng phương) 

21) Trị 10 ngón tay dại tê không biết đau ngứa, phụ tử sống bỏ vỏ. vốn, mộc hương lượng bằng nhau, gừng tươi 5 lát, sắc nước uống ấm. (Vương thị giản dị phương)

22) Đuổi phong thuận khí “Ô phụ hoàn”. Dùng xuyên ô đầu 20 củ, hương phụ tử 250g ngâm nước gừng 1 đêm, sấy sao nghiền nhỏ, rượu hoàn viên bằng hạt ngô, mỗi lần rượu điều uống 10 viên uống ấm, Cơ thể phì tráng (béo khỏe mà có bệnh phong nên thường uống. (Điềm liêu phương).

23) Chữa đầu phong[mfn]Đầu phong là đầu đau lúc đấy lúc ngừng bất thường, có súc động là phát đau, chứng này do đờm rãi phong hỏa, uất kết ở kinh lạc, khí huyết ủng tắc, trệ đọng gây ra, nặng thì mắt mờ tối – Căng nhỏ, đại tiểu tiện bí sáp. (Cách chữa dùng bài số 23, nếu không thi xem trang 4208 TQYHĐTĐ)[/mfn] đau đầu lấy ô đầu tháng chạp 1 tháng, sao cho vàng nghiền nhỏ, lấy lụa mỏng gói lại ngâm vào trong 3 đấu rượu (đấu = 10 lít) uống ấm hàng ngày. (Ngoại đài phương)

Dùng phụ tử nướng, thạch cao nung nghiền nhỏ, hai thứ này lượng bằng nhau, cho chút ít não xạ vào, mỗi lần uống nửa đồng cần (1,6 gam) nước trà điều uống.. (Tôn triệu khẩu quyết phương )

24) Trị phong độc (độc của gió) gây đau đầu trị phong độc rót vào người đầu mắt đau khó nhịn nổi dùng:

Phụ tử to 1 củ, nướng bỏ vỏ nghiền nhỏ, gừng tươi 1 lạng (32 gam), đỗ đen to 1 hợp (1/10dm3) sao chín; dùng rượu một chén sắc còn 7/10 chén điều bột phụ tử 1 đồng cần rượu ấm điều uống.

Lại một phương, trị đầu phong 20 – 30 năm không khỏi dùng xuyên ô đầu loại to để tươi, bỏ vỏ 4 lạng. thiên nam tinh hướng 1 lạng nghiền nhỏ, mỗi lần uống 2 đồng cân (6 – 7 gam) trà búp 10 gam bạc hà 7 lá, mơ muối 1 quả, nước 1 chén sắc còn 7/10, lúc đi nằm uống ấm. (Thánh huệ phương). 

Lại trị đầu đau liên tới tròng mắt ô đầu tươi 1 động cân (3,3 gam) bạch chỉ 4 đồng cân (13 gam) nghiền nhỏ, trà uống 1 chữ (0,8 gam) vẫn lấy bột thổi vào mũi, có người dùng rất công hiệu. (Chu thị tập nghiệm phương) 

25) Trị đầu đau do phong hàn, trị phong hàn trú ở trong đầu, chảy nước mũi trong gần gáy căng cứng, trong ngực đờm lạnh, nôn mửa ra nước trong, dùng đại phụ tử hoặc đại xuyên ô đầu 2 củ, bỏ vỏ nấu qua, xuyên khung sinh khương đều 1 lạng (33 gam) sấy khô nghiền nhỏ, lấy nước chè điều uống 3,3 gam  Hoặc cắt miếng, mỗi lần dùng 16 gam sắc nước uống, cách 3 – 4 ngày 1 lần uống, hoặc thêm phòng phong 1 lạng. (Thập tiện lương phương)

– Lại “Tất hiệu tán” trị phong hàn rót vào người đầu đau cả 2 bên đầu, giữa đầu, lâu năm không khỏi, rất có thần hiệu, dùng đại phụ tử 1 củ cắt sống làm 4 mảnh, lấy nước gừng một chén tẩm rồi nướng, lại tấm lại nướng hết nước gừng thì ngừng nướng, cao lương thương lượng bằng nhau nghiền nhỏ, mỗi lần uống 3,3 gam, nước trà tháng chạp điều uống, kiêng vật nóng ít thời gian. (Tam nhân phương) 

26) “Đầu phong ma tán”

Trị gội đầu bị trúng phong, nhiều mồ hôi sợ gió, nên trước khi có nối gió một ngày là đau dữ dội dùng: – Phụ tử to 1 củ, nướng, muối ăn lượng bằng nhau nghiền nhỏ, lấy độ 1 thìa cà phê xát lên vùng thóp, khiến sức thuốc thông hành, hoặc lấy dầu hòa chút ít bôi xoa cũng được, ngày 3 lần. (Trọng Cảnh phương) 

27) Trị đau đầu lâu ngày dùng: Xuyên ô đầu, và thiên nam tinh lượng bằng nhau nghiền nhỏ, trộn nước hành điều đắp 2 huyệt thái dương. (Phương kinh nghiệm)

28) Trị đờm quyết đầu đau, đau như muốn vỡ ra, khí quyết xông ngược lên đờm tức ngực cách mô dùng:  Phụ tử nướng 3 phân (ước 1 gam) nhọ trôn nồi 13 gam, nước lạnh điều uống một thìa cà phê, nôn được thì khỏi. Ky thịt lợn và nước lạnh.

29) Trị khí hư đau đầu, khí hư ủng tắc ở trên, đau 2 bên và đỉnh đầu không thể chịu nổi. Dùng đại phụ tử 1 củ, bỏ vỏ rốn, nghiền nhỏ, nước hành bột miến hòa viên , to như hạt đậu xanh, mỗi lần uống 10 viên, nước trà trong điều uống.

Lại nữa: “Yết phụ hoàn nói rằng:” Khí hư đau đầu, chỉ có phương này rất hợp cái huyền diệu của tạo hóa.

Phụ tử giúp dưỡng phù trợ hư.

Chung nhũ bổ dương trấn áp cái sa xuống. Toàn vết lấy ý nghĩa nó dẫn chui suốt các nơi, đi xuống. Nước hành giã vắt ra lấy ý nó thông khí, thang sử dụng tiêu để nó dẫn xuống, muối để dẫn, khiến khí hư về dưới, đối chứng dùng khối lg ai không Công hiệu. Phụ tử to 1 củ khoét giữa củ cho 3 con bọ cạp (toàn yết) đã trừ độc vào trong lấy bột phụ tử khoét ra đó lấp vào lỗ cùng với bột vú chuông, chút ít miến trắng hòa nước bọc củ phụ tử nướng chín (bột vú chuông 2,5 đồng cân ước 8g) rồi bỏ vỏ nghiền nhỏ, nước hành vắt ra trộn hoàn viên như hạt ngô, mỗi lần uống nước tiêu, muối điều uống 50 viên. (Tăng kế hồng điểm liêu phương)

30) Trị khí thận công lên, đầu gái không thể chuyển di “Tiêu phụ hoàn”.

Dùng phụ tử 1 cũ to nghiền nhỏ, mỗi lần dùng 7g, lấy xuyên tiêu 20 hạt dùng miếng trắng lấp đầy miệng tiêu, nước một chén rưỡi, gừng 7 lát, sắc còn 7 phân bỏ tiêu, cho vào chút muối, lúc đói uống, khí tiêu dẫn xuống để dẫn khí ngược lên về kinh. (Bản sự phương)

31) Trị lâu bị miệng lở loét, phụ tử tươi nghiền nhỏ, trộn bột miến dấm đắp lòng bàn chân, trai bên trái gái bên phải, ngày lại thay đắp lần khác. (Phương kinh nghiệm)

32) Trị răng đau do sâu do phong dùng:

Phụ tử 32g sao cháy, khô phàn 0,4g sát vào. Lại phương: Phụ tử sống, ô đầu sống nghiền nhỏ, miến hoàn viên như hạt đậu nhỏ, mỗi lần dùng bông gói ngậm vào lỗ răng sâu. Một viên. (Phổ tế phương)

Lại dùng phụ tử nướng giã nghiền nhỏ nhét vào trong lỗ sâu ăn thủng, bèn ngừng. (San phiền phương)

33) Trị các loại khí lạnh, trừ phong đàm khắp mình nhức đầu, bổ ích nguyên khí, mạnh sức bền tinh ích tủy, khiến người ít bệnh. Dùng 1 cân xuyên ô đầu đựng trong bình sứ chứa nổi 5 lít lấy nước tiểu trẻ ngâm 7 ngày, hàng ngày thêm nước tiểu cho tràn ngập ô đầu, loại bỏ củ nổi hỏng, không dùng, còn lại lấy dao tre chẻ thành 4 miếng nước mới múc rửa 7 lần, lại ngâm, ngày ngày thay nước, đủ ngày lấy ra sấy nghiền nhỏ, rượu nấu với bột miến hoàn viên như hạt đậu xanh, mỗi lần uống 10 viên, lúc đói nước muối điều uống, sau ăn ít cháo đè lên. (Phương kinh nghiệm)

34) Trị bệnh sốt rét lúc nóng lúc lạnh: dùng phụ tử 1 củ nặng 16 gam, bọc bột miến nướng, nhân sâm đan sa đều 3,3 gam, nghiền nhỏ luyện mật viên như hạt ngô, mỗi lần uống 20 viên, lúc chưa phát liên tục uống 3 lần, trúng bệnh thì nôn mửa hoặc mình mẩy ngứa tê, chữa trúng bệnh ngày hôm sau lại uống. (Bành thường An Thương hàn luận phương).

35) Trị bệnh chướng do lạnh (lãnh chướng nóng lạnh qua lại, đầu đau mình đau, nôn đờm, hoặc ra mồ hôi nhiều đòi uống, hoặc tự lợi phiền táo, nên dùng “Thang khương phụ” làm chủ mà chữa.

Phụ tử to 1 củ (ước 16 gam) đập 4 mảnh, lấy ngày 1 mảnh, nước 1 chén, gừng tươi 10 lát sắc còn 7/ 10 uống ấm.

Lý Thị Chế nói: Phương này rất hay.

Trương Kiệt bảo: Đất Lĩnh Nam (nước ta) sốt rét bị câm là nguy cấp, chỉ 1 – 2 ngày là chết, thầy thuốc bảo rất nóng bị cảm hàn vậy, dùng phụ tử sống mà trị phần nhiều khỏi. đó chẳng phải là lấy nhiệt đánh nhiệt mà phát tán tà lạnh ư? Thực là thuốc tốt hồi sinh. (Lĩnh Nam vệ sinh phương) 

8. Tư liệu tham khảo 

1) Phòng Sở Chiêm nói:

Phụ tử bẩm thụ cái chất hùng tráng, có tài chém phá cửa ải, tất phải dùng sâm truật để giám chế, nếu không thì hại không nhỏ. Xem như người xưa dùng mọi thang sâm phụ, kỳ phụ, truật phụ thì rõ lẽ ấy. Ví như tướng mạnh đi trước, quân lương tiếp sau mới có thể thành Công vậy.

2) Cố Tùng Viên nói:

Lui âm hàn, ích dương hỏa kiêm trừ hàn thấp thì phụ tử là thuốc thánh vậy. Được cùng nhục quế thì vào mệnh môn ích tướng hỏa, dẫn nhân sâm thì kéo lại cái nguyên dương bị tiêu tan, cùng sinh khương thì phát tán cái phong hàn ở phần biếu, tá dùng bạch truật thì khéo trừ hàn thấp, được cam thảo có thể hoãn hòa cái tính nhiệt.

Nguồn: Hy lãn Hoàng Văn Vinh

Xem thêm:

Bạn có thể quan tâm

Zalo
Liên Hệ