Nếu bạn không phải là một thầy thuốc Đông y, bạn không được tùy ý sử dụng các bài thuốc, vị thuốc trên website yhctvn.com để điều trị bệnh cho bản thân và người khác. Hãy đưa bệnh nhân tới khám và điều trị tại các cơ sở y tế, hoặc cá nhân có chuyên môn.

Bài thuốc Kim tỏa cố tinh hoàn

by Hoàng Duy Tân

Bài thuốc Kim tỏa cố tinh hoàn – Xuất xứ Y phương tập giải – Công dụng: Sáp tinh bổ Thận

1. Thành phần bài thuốc – Tác dụng chủ trị

Sa uyển tật lê (quân)  80g Liên tu (thần)  80g
Khiếm thực (thần)  80g Mẫu lệ nung (thần) 40g
Long cốt nung giấm (thần) 40g

Cách dùng: Tán bột, thêm bột Liên nhục hồ làm hoàn, mỗi lần uống 12g lúc đói với nước muối nhạt.

Có thể dùng làm thuốc thang sắc uống theo tỷ lệ trên

Tác dụng: cố Thận sáp tinh. 

Chủ trị: Trị chứng hoạt tinh do Thận hư.

2. Phân tích bài thuốc – Ứng dụng lâm sàng

Phân tích bài thuốc

Sa uyển tật lê bổ Thận, ích tinh là chủ dược; Liên nhục, Khiếm thực cố Thận sáp tinh; Liên tu sáp tinh; Long cốt, Mẫu lệ tiềm dương, sáp tinh. Các vị hợp lại thành bài thuốc cố Thận sáp tinh.

Ứng dụng lâm sàng

Trên lâm sàng, Kim tỏa cố tinh hoàn thường được dùng trị di tinh, mộng tinh do Thận hư, biểu hiện đau mỏi vùng thắt lưng, hoạt tinh, di tinh, tiểu nhiều lần, lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, mạch Trầm Nhược.

+ Trường hợp Thận dương hư, thêm Bổ cốt chi, Sơn thù để ôn bổ Thận dương.

+ Nếu mộng tinh, trằn trọc khó ngủ, lưỡi đỏ khô, mạch Tế Sác, thiên về Thận âm hư, thêm Quy bản, Nữ trinh tử hoặc thêm ‘Lục vị hoàn’ để bổ Thận âm.

+ Trường hợp hư nhiệt, thêm Tri mẫu, Hoàng bá để tư âm giáng hoả.

+ Bài này cũng dùng có kết quả tốt trị suy nhược thần kinh có hoạt tinh, mộng tinh, mất ngủ, đái dầm ở trẻ nhỏ có kết quả tốt.

3. Nghiên cứu lâm sàng Kim tỏa cố tinh hoàn

+ Trị di tinh do suy nhược thần kinh, viêm tiền liệt tuyến, viêm túi tinh, lao phổi và hư lao, liên quan đến thận âm suy, kèm váng đầu, hoa mắt, ù tai, lưng đau, mệt mỏi, cơ thể gầy ốm, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch Huyền Tế, hơi Sác. Kết quả tốt (Thực dụng trung y nội khoa học, Khoa học Kỹ thuật Thượng Hải).

+ Trị cao lâm (tiểu ra dưỡng trấp): Dùng bài này hợp với bài “Lục vị địa hoàng hoàn, trị cao lâm loại hư chứng, bệnh lâu ngày không khỏi hoặc có phản ứng xuất hiện nước tiểu đục như mỡ, rát đau không chịu được, cơ thể gầy ốm, lưng đau gối mỏi, váng dầu, không có sức, lưỡi nhạt, rêu lưỡi nhờn, mạch Tế Sác không lực. Kết quả tốt (Thực dụng trung y nội khoa học, khoa học kỹ thuật Thượng Hải).

+ Trị nhược cơ nặng: Người bệnh mi mắt trên bên phải bị sụp xuống, tay chân không có sức, nhai nuốt khó khăn , khó thở, hụt hơi. Người bệnh đồ dùng bài ‘Bổ trung ích khí thang’, ‘Quy Tỳ thang ’ nhưng không đỡ. Chuyển dùng bài này, mỗi lần uống 12g, ngày 3 lần, với nước muối nhạt, không ăn thịt ba ba và thịt mèo.

Kết quả: Sau khi uống 2 tuần, bệnh tình đã chuyển biến, tay chân đi lại đã có sức. Tiếp tục uống dài ngày, khỏi bệnh. Theo dõi 6 năm, không thấy tái phát (Tân trung y 5, 1973).

+ Trị sữa chảy ra: Dùng bài này, đổi thành thang sắc uống thêm Sài hồ, Mạch nha (sao), Hoàng kỳ, Thanh bì, Cam thảo, Kha tử. Trị người bệnh nữ 53 tuổi, sữa cứ tiết ra liên tục, mỗi ngày có thể ra đến 100-150ml, kèm váng đầu, hoa mắt, tiểu đêm nhiều lần, hồi hộp, ăn ít. Kết quả: uống 6 thang, khỏi bệnh (Tân trung y 5, 1986).

4. Trích dẫn y văn

> Trương Bỉnh Thành nói: Phàm chứng di tinh chẳng qua chia làm hai nguyên nhân hữu hoả, vô hoả và hư thực mà thôi. Nằm mộng là vì tướng hoá mạnh, nên thanh hoả ở tâm can thì bệnh có thể khỏi. Không nằm mộng thì hoàn toàn thuộc Thận hư không giữ vững, nên dùng thuốc bổ sáp để cố thoát. Đã thuộc chứng hư hoạt thì không có hoả, không có trệ mà tiêu đạo, cho nên dùng Đồng sa uyển để bổ nhiếp tinh của Thận, bổ chỗ hư thiếu, Mầu lệ cố hạ tiêu mà tiềm dương, Long cốt an hồn, bình mộc (can), hai vị đều có công năng cố thoát, Khiếm thực ích Tỳ mà chỉ bạch trọc, Liên nhục vào Thận để giao Tâm, lại dùng Liên tu là chuyên nhờ công năng chỉ sáp. Bài này vì trị hư hoạt tinh mà đặt ra (Thành phương tiện độc).

> Bài thuốc có tên ‘Kim tỏa cố tinh’ tức là nói bài thuốc giống như chiếc khóa vàng giữ vững cửa của tinh dịch. Vi kim tỏa nghĩa là khoá vàng (Thang đầu ca quát).

> Chứng di tinh có rất nhiều nguyên nhân, nhưng có quan hệ mật thiết với 2 tạng Can thận, vì Thận chủ việc tàng tinh, can coi việc sơ tiết, Thận âm hư thì tinh quan không kiên cô mà sinh ra hoạt thoát, Can dương mạnh thì tướng hoả bốc ở trong mà sinh ra di tiết. Cách chung, nếu ngủ mơ mà xuất tinh, phần nhiều là tướng hoả nung đốt bên trong, hoả nhiễu động khiến cho tinh tiết ra; nếu không có ngủ mơ mà xuất tinh, phần nhiều thuộc cửa của thận không bền chặt, tâm thận không giao nhau. Chứng trước điều trị nên tư âm giáng hoả, chứng sau nên dùng bài này để cố sáp. Do thấp nhiệt ở hạ tiêu khuấy động mà sinh ra di tinh thì cần dùng bài này (Thượng Hải phương tễ học).

Nguồn: L/y Hoàng Duy Tân

Xem thêm:

Bạn có thể quan tâm