Nếu bạn không phải là một thầy thuốc Đông y, bạn không được tùy ý sử dụng các bài thuốc, vị thuốc trên website yhctvn.com để điều trị bệnh cho bản thân và người khác. Hãy đưa bệnh nhân tới khám và điều trị tại các cơ sở y tế, hoặc cá nhân có chuyên môn.

Bài thuốc Ngọc bình phong tán

by Hoàng Duy Tân

Bài thuốc Ngọc bình phong tán – Xuất xứ Thế y đắc hiệu phương – Tác dụng ích khí, cố biểu, chỉ hãn.

1. Thành phần bài thuốc – Tác dụng chủ trị

Hoàng kỳ 24g Phòng phong 8g
Bạch truật 16g

Cách dùng: Tán bột, trộn đều, mỗi lần uống 8-12g, ngày 2 lần. Có thể dùng thuốc thang sắc uống.

Tác dụng: ích khí kiện Tỳ, cố biểu, chỉ hãn. 

Chủ trị: Trị chứng biểu hư, vệ khí không vững chắc, dễ bị cảm, sợ gió, ra mồ hôi, sắc mặt trắng nhợt, lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, mạch Phù, Hư, Nhuyễn.

2. Phân tích bài thuốc – Ứng dụng lâm sàng

Phân tích bài thuốc

Trong bài Ngọc bình phong tán Hoàng kỳ dùng liều cao để ích khí, cố biểu là chủ dược; Bạch truật kiện Tỳ; Phòng phong khu phong. Phòng phong phối với Hoàng kỳ, dẫn Hoàng kỷ ra ngoài biểu để chế ngự phong tà; Hoàng kỳ có Phòng phong thì tránh được sự lưu luyến ngoại tà. Phòng phong có Hoàng kỳ thì tránh được trạng thái phát biểu thái quá. Bài này thuộc về phép ‘trong bổ có tán, trong tán có bổ’ vậy.

Ứng dụng lâm sàng: Bài thuốc dùng để trị chứng biểu hư dễ cảm mạo, đối với người hay bị cảm mạo dùng bài này có thể nâng cao sức khoẻ.

Gia giảm :

+ Trường hợp ngoại cảm, biểu hư, sợ gió, ra mồ hôi, mạch Hoãn, thêm Quế chi để giải cơ.

+ Mồ hôi ra nhiều, thêm Mẫu lệ, Tang diệp, Ngũ vị tử, Ma hoàng căn để tăng cường cô’ biểu, cầm mồ hôi.

+ Viêm mũi mạn tính hoặc do dị ứng, thêm Thương nhĩ tử, Bạch chỉ để sơ phong khai khiếu.

3. Nghiên cứu lâm sàng Ngọc bình phong tán

+ Trị viêm hô hấp truyền nhiễm: Dùng bài ‘Ngọc bình phong tán’ trị 85 trường hợp, kết quả khỏi 59, có kết quả 22, không kết quả 4 (Trung y tạp chí (1) 1982).

+ Trị trẻ nhỏ mồ hôi tự ra (tự hãn): Trị 54 ca, khỏi 33, hiệu quả ít 20, không hiệu quả 1 (Liêu Ninh trung y tạp chí (5)  1983).

+ Trị mồ hôi trộm: Trị 44 ca, khỏi 41, có hiệu quả 3 (Thượng Hải trung y dược tạp chí (11) 1964).

+ Viêm mũi dị ứng: Trị 255 ca, khỏi 106, hiệu quả ít 72, có kết quả 38, không kết quả 39 (Thượng Hải Trung y dược tạp chí (11) 1964).

+ Trị mề đay, dị ứng mạn tính: dùng Ngọc bình phong tán trị 26 ca, kết quả khỏi 8, có kết quả 14, không kết quả 4. Uống 7 đến 21 ngày (Bắc Kinh trung y học viện học báo (3) 1978).

+ Trị da nổi vết ban: Trị 100 ca, khỏi 95, hiệu quả ít 4, không hiệu quả 1 (Hồ Bắc trung y tạp chí (6) 1989).

+ Trị ho: Trị 200 ca, trong đó 56 ca viêm đường hô hấp trên, 38 ca viêm Phế quản cấp, 106 ca viêm Phế quản mạn. Kết quả: hiệu quả ít 181 ca, có hiệu quá 14, không hiệu quả 5, uống 2 – 11 ngày (Hồ bắc trung y tạp chí (1)  1987).

+ Trị lác sữa ở mặt: Trị 49 ca, khỏi 32, hiệu quả ít 15, có kết quả 2 (Thiểm Tây trung y tạp chí (3) 1989).

+ Trị trẻ nhỏ sốt về mùa hè: Trị 25 ca. Kết quả khỏi hoàn toàn. Uống 3 – 7 ngày (Hồ Bắc trung y tạp chí (4) 1987).

+ Trị lác, lang ben, da mẩn đỏ (tử điến): Trị 7 ca. Trong đó tiểu cầu giảm 4 trường hợp, dị ứng 3 trường hợp. Kết quả: khỏi hoàn toàn (Thiểm Tây tạp chí (6) 1986).

+ Trị thận viêm thể ẩn: Trị 36 ca. Kết quả hồng cầu trong nước tiểu giảm 90,9%, đản bạch giảm 83,3%. Trung bình bị bệnh 8 tháng đến 3 năm, theo dõi không thấy tái phát (Trung tây kết hợp tạp chí (6) 1983).

4. Trích dẫn y văn

> Kha Vận Bá nói: Tà khí xâm nhập được tất do chính khí đã hư, cho nên trị phong không sợ không có gì mà đuổi phong, chi sợ không có gì để mà ngăn ngừa được phong, không sợ phong không đi mà chỉ sợ phong trở lại. Sao lại thế ? Vì phát tán thái quá, đổ mồ hôi không đóng kín lại được. Người không giỏi không biết cách thác lý cố biểu, chỉ chuyên dùng phong dược để khu trừ, thì cái đi cứ đi, cái lại cứ lại, tà khí lưu liên không bao giờ xong. Phòng phong thông hành khắp toàn thân, gọi là vị thuốc tiên về trị phong, trên thanh bảy khiếu ở đầu và mặt, trong trừ phong khớp xương đau tê, ngoài giải tay chân co cứng là vị thuốc nhuận trong loại thuốc trị phong, trị phong dùng độc một vị này đảm nhiệm dược trọng, công dùng dược chuyên. Nhưng vệ khí là để làm ấm thớ thịt, đầy đủ ngoài da thịt, vững tấu lý mà chủ việc mở đóng, chỉ có Hoàng kỳ hay bổ tam tiêu mà chắc vệ khí, làm then chốt chống đỡ phong cho lỗ mồ hôi, hơn nữa có mồ hôi thì sẽ cầm lại, không có mồ hôi thì làm cho phát ra, công dụng giống như Quế chi, cho nên lại có thể trừ phong nhiệt ở đầu mắt, bệnh phong, bệnh hủi, trường phong hạ huyết, phụ nữ tử cung bị phong, là vị thuốc trị phong trong thuốc bổ vậy, vì thế Phòng phong được Hoàng kỳ thì công hiệu càng mạnh; Bạch truật kiện Tỳ Vị, ấm thớ thịt, bồi thổ tức để làm yên phong. Phòng phong hay trị phong, gặp Hoàng kỳ để cố biểu, thì ngoài được bảo vệ, dược Bạch truật để cố lý, thì trong vững chắc, phong tà đi mà không trở lại đó là muốn tán phong tà nên dựa vào bình phong, quý giá như ngọc. Ra mồ hôi không chỉ cũng do vì tà ở biểu, bì mao cơ nhục không kín đáo vậy. Khác xa với các bài như ‘Phòng phong thông thánh’ (Danh y phương luận).

> Chứng tự đổ mồ hôi của bài này khác với chứng thương phong (cảm) tự đổ mồ hôi. Thương phong tự đổ mồ hôi thid trách tại tà thực, chứng nay tự đổ mồ hôi thì trách tại biếu hư, cho nên có bổ có tán khác nhau.

Theo sách ‘Bản kinh’, Phòng phong chủ trị ‘Gió nhiều, sợ gió’, có thể biết chứng của bài này ngoài chứng tự đổ mồ hôi ra, còn có chứng trạng sợ gió.

Tuy nhiên, chứng sợ gió của bài này là do vệ khí hư, thấy gió thì sợ, khác với chứng sợ gió vì ngoại cảm tà thực. Sau khi dùng bài này thì vệ khí phấn chấn, tấu lý kín đáo, chứng tự đổ mồ hôi và sợ gió đều sẽ khỏi (Thượng Hải phương tễ học).

> Dùng bài ‘Ngọc bình phong tán’ thêm Hoàng tinh, Dâm dương hoắc và Ngũ vị tử có tác dụng ích khí, cố biểu, ôn thận, bổ Phế. Trị Phế khí bất túc, vệ khí ở biểu không đầy đủ, vững chắc, công năng miễn dịch của cơ thể bị suy giảm. Trên lâm sàng, có thêm Dâm dương hoắc, Hoàng tinh, Ngũ vị tử để ôn thận, ích âm, liễm Phế, so với chl dùng bài ‘Ngọc bình phong tán’ đơn độc thì tác dụng cao hơn rõ rệt. Với các bệnh mạn tính, cảm mạo, hen suyễn, dị ứng, mề đay… thì bài này cũng có kết quả rất tốt (Thiên gia diệu phương).

> Dùng bài ‘Ngọc bình phong tán’ thêm Chỉ xác, thành bài ‘Tử kỳ thang’ (Hoàng kỳ 20g, Bạch truật 15g, Chỉ xác 15g, Phòng phong 10g), có tác dụng thăng đề, cố thoát, trị vị khí hư, trung khí hạ hãm, dạ dày sa xuống. Bài ‘Ngọc bình phong tán’ dùng thay bài ‘Bổ trung ích khí thang’, dược lực so với bài ‘Bổ trung ích khí thang’ có tác dụng lớn hơn. Ngoài công dụng trị sa dạ dầy, bài Tứ kỳ thang’ còn có tác dụng trị sa ruột, thoái vị bẹn, dãn dạ dầy, lòi dom, sa tử cung (Thiên gia diệu phương)

Nguồn: L/y Hoàng Duy Tân

Xem thêm:

Bạn có thể quan tâm