Banner
Nếu bạn không phải là một thầy thuốc Đông y, bạn không được tùy ý sử dụng các bài thuốc, vị thuốc trên website yhctvn.com để điều trị bệnh cho bản thân và người khác. Hãy đưa bệnh nhân tới khám và điều trị tại các cơ sở y tế, hoặc cá nhân có chuyên môn.

Vị thuốc Nga truật ( nghệ đen)

by Hy Lãn Hoàng Văn Vinh

Vị thuốc Nga truật ( nghệ đen). Còn gọi Nga truật, ngải tím, nghệ đen (Cây cỏ thường thấy ở Việt nam). Ngải tím, tam nại, bồng truật, nghệ đen (Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam). Bồng nga truật, nga truật, sơn khu khương, hắc tâm khương, lan khương trung được (Vân nam trung dược tư nguyên danh lục). Văn truật (Tứ xuyên trung dược chí). Hắc tâm khương (Linh nam thái dược lục). Quảng truật (Bản thảo cầu chân). Khương thất (Sinh thảo dược tính bị yếu). Quảng mậu (chân châu nang). 

Tên khoa học: Curcuma zedoaria (Berg) Roca Thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Còn gọi: Sơn khương hoàng, lục khương. 

1. Bộ phận dùng, thu hái và bào chế

– Bộ phận dùng: Nga truật là rễ phơi khô của cây Nghệ đen 

– Hình thái

Cây thảo, cao chừng 1 – 1,5m có thân rễ hình nón, có khía dọc 3 tỏa ra theo hình chân vịt, dầu nạc màu vàng nhạt ở trong; củ già có những vòng màu đen. Ngoài những củ chính ra còn có những củ phụ có cuống trái xoan hay hình quả lê, màu trắng. Lá có bẹ dài ở GỐC, phiến hình mũi mác, dài tới 60cm, rộng 8cm, có những đốm đỏ dọc theo gân chính, không có cuống hay có cuống ngắn. Cán hoa bên cạnh nhân có lá, mọc từ rễ. dài tới 20cm thường xuất hiện trước khi ra lá. 

Cụm hoa hình trụ, dài tới 20cm, rộng 5cm, lá bắc phía dưới hình trái xoan hay hình mũi mác tù, lợp lên nhau, màu lục nhạt, viền đỏ ở mép; các lá bắc trên không sinh sản màu vàng nhạt, điểm thêm màu hồng ở chóp. Hoa nhiều, dài 4 – 5cm, màu vàng. Đài hình ống, có lông, có 3 răng không đều. Tràng hình ống dài hơn đài 3 lần, các thùy hình mũi mác tù: Bao phấn hình trái xoan có các ô kéo dài xuống phía dưới thành cựa rẽ ra, ngọn trung đới dạng bản tròn; chỉ nhị dính với các nhị lép. Cánh môi thót lại ở gốc, lõm lại ở đỉnh, màu vàng. Nhị lép hình mũi mác tù hay thuôn dính nhau ở nửa dưới. Bầu có lông, nhụy lép hình dài. Ra hoa vào mùa xuân.

Cây mọc hoang dại nhiều nơi của nước ta và cũng được trồng làm thuốc xem dưới đây.

– Thu hái:

Thu đông đào lấy củ rễ mang về bỏ đất cát, rễ con, sau khi nấu chín phơi khô, bỏ sạch lông râu tia xung quanh củ cùng tạp chất. 

– Bào chế: 

Bồng nga truật: Luyện bỏ tạp chất, dùng nước ngâm rửa, sau khi ngâm cho vào chõ đồ, cho ra cắt mỏng phơi khô, Nga truật sao dấn: Nga truật luyện bỏ tạp chất, rửa sạch, đặt trong nồi thêm dấm cùng nước nóng khiến thấm, dùng ta vừa sao cho kỹ, dấm thấm đủ vào nga truật bắc ra để nguội phơi trong râm (cứ 100 cân nga truật dùng 10 – 20 cân dấm).

2. Tác dụng dược lý.

1) Tác dụng kháng u cục sưng:

Miệng uống cùng với tiêm vào màng bụng dịch tiêm nga truật, đối với chuột con có u thịt -180 thì có tác dụng ức chế. Nhưng miệng uống đối với chuột con bị ung thư bụng nước họ ngải (Aldrich ascite carcinoma) thì không công hiệu. 

2) Tác dụng kháng khuẩn:

Dầu bay hơi (tinh dầu trong ống nghiệm thấy có ức chế staphylococcus aureus, B – hemolytic uremia, Bacillus coli, Bacillus typhosus, vibrio comma:

3) Tác dụng khác: 

Tác dụng đối với đường tiêu hóa cùng sinh khương (gừng tươi) cùng giống, có thể trực tiếp hưng phần đường tràng vị, đôi khi có dùng chữa đau cắn kiểu khí chướng (flatulent colic).

Vị thuốc Nga truật

Vị thuốc Nga truật

3. Vị thuốc Nga truật theo Đông y

– Tính vị: Đắng, cay, ấm. 

– Vào kinh: Vào 2 kinh tỳ và can (có sách nói vào kinh phế, có sách nói và 2 tâm thận). –

– Công dụng chủ trị: 

Hành khí, phá huyết ngừng đau, tiêu tích. Trị tâm bụng chướng  đau, trưng hà, tích tụ, thức ăn cách đêm không tiêu, phụ nữ huyết ứ kinh bế, vấp ngã đánh đập tổn thương gây đau. 

+ Dược tính luận: Trị Con gái huyết khí tâm đau1 phá khí lạnh huyền tích, lấy rượu dấm mài uống .

+ Nhật Hoa tử bản thảo:  Trị các loại khí, mở vụ tiêu ăn, thông kinh nguyệt, tiêu máu ứ ngừng đánh đập tổn thương, ỉa ra máu cũng máu ác tổn hư ở trong.

+ Khai bảo bản thảo:

Chủ trị tâm bụng đau, trúng ác, “chú tạc”, miệng nôn trên tháo, khí lạnh nên nước chua, giải độc, ăn uống không tiêu, nghiền nhỏ với rượu uống. Lại chữa đàn bà huyết khí, con trai bôn đồn.

+ Y học khái nguyên: Chủ trị tâm cách mô đau. 

+ Vương Hiếu Cổ: Thông máu tụ ở kinh can. 

+ Phẩm vựng tinh yếu: Phá tích tụ. 

+ Y học nhập môn: Có thể trục thủy, trị bệnh tâm tý, phá khí bị

+ Bản thảo thông huyền: Chuyên chạy vào người bệnh gan (can gia phá máu xấu tích tụ, Xơ thông đờm, thức ăn gây đau.

+ Sinh thảo dược tính bị yếu: Đắp lở tiêu sưng, tan ứ ngừng đau, cũng có thể ngừng máu trị đánh đập vấp ngã tổn thương..

+ Hội ước y kính: Trị khí trệ bánh chướng sưng do khí, sưng do nước.

* Cách dùng lượng dùng : Uống trong: Sắc uống 6g – 12g/ngày, hoặc làm viên, làm bột uống.

* Kiêng kỵ:

Khí huyết cùng hư, tỳ vị hư yếu, mà không có tích trệ ấy cẩn thận khi dùng. Đàn bà có mang kiêng uống.

Ghi chú: Nga truật và Tam lăng đều là thuốc phá huyết hành khí. Tam lăng nặng về phá huyết hơn hành khí. Nga truật nặng về hành khí hơn phá huyết, 2 vị thuốc hay được sử dụng phối hợp.

+ Nhật Hoa tử bản thảo: Được rượu dấm tốt. 

+ Bản thảo chính: Tích cứng khí mạnh, không phải người có tích cứng ngoan cố thì không nên dùng.

4. Phương chọn lọc

1) Trị các loại khí lạnh; nhói tim đau như cắt, phát cơn đau muốn chết, mắc bệnh lâu tâm bụng đau, luôn dấu cơn: 

Nghệ đen 2 lạng (nướng dấm). Mộc hương 1 lạng (nướng). Cùng nghiền nhỏ, mỗi lần uống 1/2 đồng cân, nước dấm nhạt điều uống.

(Vệ sinh gia bảo phương)

2) Trị tiểu tràng tạng khí trái mùa đau không thể nhịn nổi: Bồng nga truật nghiền nhỏ, lúc đói rượu hành điều uống 1 đồng cân. (Dương thị hộ mệnh phương) 

3) Trị bôn đồn sán hà: Bồng nga truật; Nhục quế; Tiểu hồi hương. Lượng bằng nhau, nghiền nhỏ uống. (Bản thảo dựng ngôn) 

4) Trị nuốt chua nôn chua: 

Nga truật 1 lạng; Hoàng liên 5 đ.cân. (Hoàng liên cùng nấu với ngô thù du 5 động cân rồi bỏ ngô thù du) sắc uống.(Đan khê tâm pháp)

5) Trị đàn bà huyết khí đau chạy khắp nơi, cùng eo lưng đau:

Nga truật (thái miếng); Can tất (nghiền nhỏ). Đều 2 lạng, cùng sao khiến sơn khô (can tất) cháy hết khói, thơm lấy ra bỏ sơn không dùng, chỉ dùng bột nga truật, rượu ấm điều uống 3 đồng cân. Eo lưng đau dùng rượu ngâm hồ đào nhục điều uống, đau chạy nước lạnh điều uống.

(Phổ tế phương).

6) Trị kinh ra chưa hết, khắp mình sốt cơn, miệng khát, bụng dưới nhức đầu, đầu đau:

Tam lăng (sao dấm); Nga truật (sao dấm); Hồng hoa; Ngưu tất; Tô mộc. Sắc uống vào lúc đói. (Bí truyền nội phủ kinh nghiệm nữ khoa nga truật tán) .

7) Trị khí không tiếp nối, khí ngắn, kiêm trị hoạt tiết (dễ đại tiện, đại tiện lỏng) cùng tiểu tiện luôn:

Nga truật 1 lạng; Kim linh tử (bỏ hột) 1 lạng. Nghiền cho nhỏ thêm vào 1 đồng cân bằng sa luyện qua, nghiên nhỏ, tất cả hòa đều, mỗi lần uống 2 đồng cân, nước muối hoặc rượu ấm điều uống vào lúc đói.

(Tôn dụng hòa – Chính nguyên tán)

8) Trị khí xốc lên suyễn gấp: Nga truật 5 đ.cân; Rượu 1 chén rưỡi Sắc còn 8/10 chia ra uống. (Bảo sinh phương)

9) Trị hoắc loạn (miệng nôn trôn tháo) nên lợi muốn chết: Nga truật Hoắc hương Hoạt thạch Binh lang Hậu phác Đầu hành củ. Sắc nước uống lạnh. (Mã thị tiểu phẩm) 

5. Báo cáo lâm sàng:

Chữa ung thư cổ tử cung

Chọn dùng cách tiêm trực tiếp vào chỗ có bệnh dịch tiêm nga truật là chủ yếu, phối hợp với dùng thuốc tiêm tĩnh mạch. Quan sát các loại hình ung thư cổ tử cung sớm và muộn, cộng là 80 giường, trong đó bệnh nhân ở kỳ sớm dùng thuốc trên dưới 3 tháng. Bệnh nhân kỳ muộn bình quân chữa trị trên dưới 6 tháng. Kết quả lâm sàng thời kỳ gần chữa khỏi u sưng cục bộ tiêu tan, kiểm tra bệnh lý chưa thấy tổ chức ung thư, ba lần làm “đồ phiến”. kiểm tra âm đạo đều âm tính, xung quanh tổ chức ngấm dầm ra tiêu lui, hoặc bị khống chế, chứng trạng tự giác hoàn toàn tiêu mất hoặc cơ bản tiêu mất) 30 giường; Công hiệu rõ ràng (cục bộ u sưng tiêu hư từ 1/2 trở lên, xung quanh tổ chức ngấm dầm ra bị khống chế, chứng trạng tự giác chuyển tốt) 14 giường.

Không công hiệu chứng trạng tự giác cùng khách quan kiểm tra không cải biến, hoặc tình hình bệnh xấu đi) 21 giường. .

Ở thời kỳ sớm (nguyên vị, kỳ I, kỳ II) và loại  và loại hình cauliflouver (thái hoa hình) thì công hiệu tương đối tốt, mà đối với kỳ muộn (kỳ III kỳ IV) cùng với sau khi đã chữa phóng ra mà phát trở lại (recurrence) hiệu quả tương đối kém.

Cách dùng:

Tiêm tại chỗ dùng dụng cụ tiêm vòm họng (thể biên đào) đem đầu kim tiêm đưa tới nơi có bệnh hoặc với tầng dưới cùng từ nông vào sâu, đưa dịch thuốc rải đều tới trong chỗ bệnh khu trú, cứ dịch thuốc rò rỉ ra làm chuẩn, độ sâu đạt tới tầng đáy của chỗ bệnh ung thư khu trú, nhìn mắt thường xung quanh vùng có bệnh tựa như bình thường, một số tổ chức khác bị ung thư cũng chữa như thế, tiêm thuốc như thế nếu dịch thuốc có rò ra thì hiệu quả không lý tưởng. Thuốc chế dùng để tiêm cục bộ từng vùng có ung thư gồm có: 

1) 100% dung dịch nước dầu nga truật (Zedoary Volatile oil) mỗi lần 10 – 30ml.

2) 10% tinh dầu (dầu bay hơi) Curcumenol mỗi lần 2 – 4ml.

3) 5% dung dịch sữa đục tinh dầu nga truật (Galactic oleum curcumae aromaticae) mỗi ngày tiêm 1 lần. Tiêm tĩnh mạch dùng 20% dung dịch nước tinh dầu nga truật với đơn thuốc phức hợp (phục phương nga truật huy phát du thủy dung dịch) mỗi ngày 1 lần, mỗi lần 100 – 300ml, tiêm tĩnh mạch hoặc rỏ giọt; tổng lượng có thể dùng 1 9000 – 10.000ml (làm 1 liệu trình).

Căn cứ quan sát, tiêm cục bộ tổ chức ung thư, dùng 100% dịch tiêm nga truật có thể trong 15 ngày xuất hiện vùng bệnh cục bộ ung thư bị hoại tử: dùng 10% tinh dầu Curcumenol (nga truật huy phát du thuần dung dịch) hoặc 5% dịch sữa đục tinh dầu nga truật thi đại bộ phận trong 2 – 3 ngày đã xuất hiện vùng bệnh cục bộ tiêm hoại tử. Cho nên lâm sàng lúc dùng tinh dầu Curcumenol cùng với dịch sữa đục tinh dầu nga truật, đương lúc tổ chức vùng bệnh xuất hiện hoàn toàn hoại tử, có thể đổi dùng dịch tiêm nga truật 100% tiêm cục bộ; đương lúc tổ chức vùng ung thư cục bộ bị hoại tử, không thể tự nhiên rơi rụng ra có thể dùng kim kẹp mô hoặc dao cắt cho rời ra, đồng thời đối với tổ chức xung quanh tiếp tục tiến hành tiêm, tổ chức tiêm này xuất hiện chứng viêm sưng đỏ phản ứng, cũng không nhất thiết phải ngừng thuốc. Có một số bệnh nhân lúc bắt đầu chữa, vùng bệnh (bệnh táo) không mười phần quan trọng mà mới sau vài lần dùng thuốc vùng bệnh càng rõ rệt; đó là tổ chức cục bộ đã bị thấm nhuần. dưới tác dụng của dịch thuốc thì kết quả biểu hiện lộ rõ ra, mà không phải là bệnh tình phát triển, cần tiếp tục dùng thuốc. Trải qua chữa trị một đoạn thời gian, tổ chức cục bộ từng vùng không lại phát sinh hoại tử, chỉ là phản ứng dụng chứng viêm sưng đỏ, sờ nắn không ra máu, thì lúc này có thể ngừng thuốc để quan sát. Đại để sau khi dùng thuốc đại ước khoảng trên dưới 1 tuần, phản ứng dụng chứng viêm sưng đỏ tiêu tan, lớp thượng bì mới sinh lại mọc, có thể tiến hành kiểm tra lại bệnh lý. Thực tiễn chứng minh tiêm cục bộ dịch tiêm nga truật có thể khiến tổ chức ung thư biến tính, hoại tử, rơi rụng, co teo, dung giải cùng tiêu tan, mà đối với tổ chức bình thường bên cạnh chỗ ung thư thì không tổn hại rõ rệt, Cơ lý thế nào cần đợi nghiên cứu thêm một bước nữa.

6. Các nhà bàn luận

1) Bản thảo đồ kinh:

Bồng nga truật các phương đời cổ không thấy dùng, nay nhà y trị mọi khí tích tụ làm thứ thuốc rất cần thiết. Cùng kinh tam lăng cùng dùng càng tốt, trong thuốc chữa phụ khoa cũng dùng nhiều.

2) Thang dịch bản thảo: 

Bồng nga truật sắc đen, phá máu ở trong khí, tuy là thuốc để tiết ra cũng có thể ích khí, cho nên ông Tôn Dụng Hòa dùng trị khí ngắn không thể tiếp tục. Cho nên “viên đại tiểu thất hương”, “tập hương hoàn, tán, cùng thang” sắc uống cũng dùng nhiều vậy.

3) Cương mục:

Uất kim vào tâm chuyên trị bệnh phần huyết; khương hoàng vào tỳ kiêm trị khí ở trong huyết; bồng nga truật vào gan trị huyết ở trong khí hơi là không giống nhau. Xét Vương Chấp Trung “tư sinh kinh” nói rằng: Chấp Trung bị bệnh đau tâm tỳ lâu, uống thuốc tỉnh tỳ, ngực lại chướng, dùng bằng nga truật gói trong bột miến nướng chín nghiền nhỏ, dùng dấm cùng rượu, nước sắc uống lập tức khỏi. Bởi vì thuốc nay có thể phá huyết ở trong khí,

Nguồn: L/Y Hy Lãn

Xem thêm:

Bạn có thể quan tâm

Zalo
Liên Hệ